Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
Xin cho biết cách phòng và chữa trị những bệnh thường xảy ra với thỏ nuôi?
Để nuôi thỏ hiệu quả đặc biệt là để có thỏ con sau khi sinh khoẻ mạnh thì công tác chăm sóc thỏ mẹ và vệ sinh phòng dịch phải được đảm bảo dưới đây chúng tôi giới thiệu cho bạn kỹ thuật chăm sóc thỏ đẻ và thỏ con.
Kỹ thuật nuôi thỏ đẻ và thỏ mẹ nuôi con
Cần chuẩn bị ổ đẻ chu đáo, vệ sinh đưa vào lồng trước khi đẻ 2-3 ngày. Khi thỏ đẻ và tiết sữa nuôI con cần đảm bảo chế độ dinh dưỡng tốt và nước uống đầy đủ, tránh hiện tượng thỏ mẹ ăn con do thiếu khoáng và nước. Thời gian này nên bổ sung cho thỏ mẹ uống nước đường hoặc ăn mía để phục hồi sức khoẻ nhanh, tiết sữa nhiều. Khi thỏ đẻ cần quan xát xem thỏ có đẻ ra ngoài ổ không, có nhổ lông làm ổ ấm không để có tác động hỗ trợ cho chúng như thu gọn con vào ổ, làm ổ cho chúng.
Yếu tố quan trọng trong khi chăm sóc thỏ đẻ và thỏ mẹ nuôi con là phải đảm bảo môi trường không khí, lồng chuồng, ổ đẻ, thức ăn nước uống sạch sẽ, vì các mầm bệnh truyền nhiễm thường xâm nhập vào cơ thể qua đường sinh dục khi đẻ, qua tuyến sữa khi cho con bú và qua thức ăn nước uống khi sức đề kháng cơ thể bị giảm sút. Mầm bệnh từ con mẹ rất dễ lan truyền sang đàn con qua đường sữa mẹ và tiếp xúc trực tiếp.
Kỹ thuật nuôi thỏ con theo mẹ
Nhu cầu nhiệt độ môI trường xung quanh ổ đẻ lúc mới đẻ là 30-32oC. Cho nên khi thỏ đẻ cần kiểm tra xem con mẹ có nhổ lông làm tổ ấm cho con sơ sinh không, nhất là mùa đông. Nếu không, thì cần nhổ tỉa lông bụng quanh núm vú của con mẹ trộn với đồ lót mềm, khô, sạch làm ổ cho đàn con nằm. Hàng ngày phảI kiểm tra ổ đẻ và đàn con, loạI bỏ những phần lót ổ bị ướt, bẩn và những con bị chết. Sau một tuần thì thay hoàn toàn đồ lót ổ và sau 3 tuần thì bỏ ổ đẻ cho con ra ngoàI lồng. Mùa đông rét buốt cần dể ổ đẻ vào nơI ấm áp, kín gió, có thể phảI đốt sưởi để thỏ con không bị chết lạnh.
Thỏ con sơ sinh sau 15 giờ mới bắt đầu bú mẹ. Trong 18 ngày đầu, thỏ con sống và phát triển phụ thuộc hoàn toàn vào sữa mẹ. Hàng ngày phảI kiểm tra thỏ con có được bú no không. Nếu thỏ no thì da căng, phẳng, 5-8 ngày đầu thấy bầu sữa màu hồng, căng phình ra ở khoang bụng, nằm yên tĩnh trong ổ ấm. Nếu thỏ con đói thì da nhăn nheo, bụng lép, cựa quạy? liên tục. Khi thỏ con đói , cần xem vú mẹ có viêm không, mẹ có sữa không, thỏ con có bị hoặc thỏ mẹ không cho con bú để có biện pháp khắc phục kịp thời như nuôI ghép, cho bú nhờ, đIều trị bệnh . Khi đàn con được 18-21 ngày tuổi thì ra ổ, chúng đã biết ăn thức ăn với mẹ. Từ lúc này cần tập cho thỏ con chuyển tiếp dần từ sữa mẹ sang thức ăn cứng. Lúc 23-25 ngày tuổi cơ thể đã hấp thụ được 50% nhu cầu dinh dưỡng từ thức ăn của mẹ. Từ ngày thứ 26 sữa mẹ chỉ đáp ứng 20-30% nhu cầu dinh dưỡng của thỏ con. Cho nên từ khi thỏ con ra ổ cần hết sức chú ý đến đàn con bú mẹ và ăn được bao nhiêu để cung cấp thêm tiêu chuẩn khẩu phần ăn cho con mẹ tránh thỏ con chết đói và suy dinh dưỡng. Thức ăn thô xanh phảI là loạI rau lá cỏ non để thỏ con tập ăn được.
Thỏ mẹ chỉ vào ổ cho con bú một lần trong ngày đêm là đủ no. ĐôI khi mẹ vào ổ bới đàn con, nằm trong ổ ỉa đáI làm bẩn đồ lót ổ, có khi do sợ hãi vội nhảy vào ổ đẻ dẫm đạp vào đàn con làm chúng mất yên tĩnh. Do đó sau khi đẻ một ngày nên đưa ổ đẻ có nắp đậy kín ra khỏi lồng chuồng thỏ mẹ, buổi sáng sớm hàng ngày mới đưa vào và mở nắp để con mẹ nhảy vào cho con bú. Như vậy đàn con bú rất chóng no, con mẹ thoảI máI, đàn con yên tĩnh, ổ đẻ sạch sẽ, đàn con ít bị nhiễm bệnh.
Thỏ mẹ chỉ có 8-10 núm vú, khi đàn con sơ sinh đông hơn 8 con, khi con mẹ chết hoặc mẹ không có sữa thì cần san bớt con đến cho con mẹ khác ít con cùng lứa tuổi để nuôi ghép. Nếu không san đàn được thì nên loạI bỏ những con yếu kém. Mỗi đàn chỉ nên để nuôI 6-8 con là tốt nhất. Cách san đàn như sau: đưa ổ đẻ ra khỏi lồng, đặt thỏ con mới vào ổ rồi phủ lông kín cùng với đàn con cũ, sau 20-30 phút mới đưa ổ đẻ trở lại lồng thỏ mẹ. Thỏ mẹ sẽ không phát hiện ra đàn con lạ và sẽ nuôi con bình thường. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với đàn thỏ nuôi thương phẩm.
Kỹ thuật cai sữa thỏ và nuôi thỏ thịt
 Phụ thuộc vào chế độ nuôI dưỡng, phương thức nuôI mà lượng sữa mẹ cao nhất vào ngày 15-21 của chu kỳ và giảm dần đến ngày thứ 35-42 thì cạn hãn. Cho nên có thể cai sữa vào lúc 28-42 ngày tuổi. Lúc đó thỏ con đã ăn được thức ăn tinh, thô rồi. Nếu con mẹ đẻ dày (phối giống có chửa ngay sau khi đẻ) hoặc thỏ mẹ mắc bệnh, gầy yếu thì nên cai sữa sớm hơn. Nếu con mẹ đẻ thưa, nhiều sữa hoặc thể lực đàn con còn yếu thì cai sữa muộn hơn. Nhưng không nên cai sữa sớm trước 28 ngày dễ làm cho thỏ mẹ tắc sữa và cũng không nên cai sữa muộn sau 42 ngày gây ảnh hưởng đến sinh sản của thỏ mẹ lứa sau.
Có nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến thỏ con khi cai sữa. Thỏ con lúc này rất nhậy cảm với các bệnh tật vì nó đã mất sự bảo vệ của mẹ và hết nguồn kháng sinh tự nhiên từ sữa mẹ. Hơn nữa thỏ thay lông lần đầu vào lúc 5-8 tuần tuổi, như vậy trùng với thời đIểm cai sữa, nên sẽ tăng thêm tác nhân stress. Khi cai sữa thường lạI phảI cân cá thể, phảI vận chuyển sang lồng chuồng, nhà nuôI khác cũng gây ảnh hưởng đén thỏ non. Sau cai sữa, thỏ con phảI ăn hoàn toàn thức ăn cứng, hết sữa mẹ. Tất cả các yếu tố trên đã tác động cùng một thời đIểm, làm giảm sức đề kháng cơ thể của chúng. Đó là lý do mà tỷ lệ thỏ con sau cai sữa chết nhiều.
 Có 3 phương pháp cai sữa:
+ Cai sữa truyền thống: Khi đến tuổi cai sữa, đưa toàn bộ đàn con sang chuồng mới để nuôI vỗ béo, hậu bị. Có nơI lạI để nuôI chung lẫn các đàn con cùng ngăn chuồng mới. Phương pháp này sẽ tăng tác nhân kích thích bất lợi, làm thỏ chết nhiều.
+ Nuôi thỏ con một giai đoạn: khi cai sữa, để thỏ con theo từng đàn riêng ngay tạI lồng chuồng thỏ mẹ và chuyển thỏ mẹ đI ngăn lồng chuồng khác. Đàn con được nuôI đến khi xuất sản phẩm hoặc chọn hậu bị giống. Phương thức này tốt hơn phương thức cai sữa truyền thống.
+ Nuôi thỏ con bán giai đoạn: Đưa thỏ mẹ đI lồng chuồng khác, để đàn con nuôI tạI chỗ thêm 2-3 tuần rồi mới chuyển đI nuôi chuồng khác.
Thỏ thường chết nhiều trong giai đoạn sau cai sữa do rối loạn tiêu hoá, suy dinh dưỡng. Thỏ con từ 3-8 tuần tuổi có sức sinh trưởng lớn nhất, sau đó tốc độ tăng trọng giảm dần, đến 14 tuần tuổi trở đị tăng trọng chậm và tiêu tốn thức ăn lớn. Vì vậy sau khi cai sữa nên cho thỏ ăn theo định lượng tăng dần, thức ăn hợp vệ sinh và chế biến hợp lý. Nếu giai đoạn này không đáp ứng nhu cầu thức ăn thì thỏ sẽ chậm lớn, sức đề kháng thấp sẽ sinh nhiều bệnh tật, đặc biệt là bệnh cầu trùng. Đến thời kỳ vỗ béo, trên 9 tuần tuổi thì nên cho ăn khẩu phần tự do với những loạI thức ăn giàu năng lượng như thóc, ngô, sắn, khoai, cơm nguội... và hạn chế thức ăn thô.
Chữa bệnh thỏ con sau cai sữa
Thỏ con sau khi cai sữa khoảng 1- 2 tháng tuổi, chết lai rai, có 3 nguyên nhân chính:
1. Bệnh đau bụng đi ỉa: Thực chất là rối loạn tiêu hóa, do thay đổi thức ăn đột ngột, hoặc do thức ăn, nước uống bẩn hoặc do thời tiết thay đổi, mưa tạt, gió lùa... Phân thỏ lỏng, hậu môn bê bết, thỏ kém ăn, lờ đờ, uống nước nhiều, gầy yếu rồi chết dần. Khi thấy hiện tượng thỏ bị đau bụng tiêu chảy, phải ngưng ngay thức ăn, nước uống và các yếu tố mất vệ sinh khác. Cho uống ngay nước chát, đặc của cây nhọ nồi, búp ổi... Có thể cho uống Sulfaganidin với liều 0,1g/kg thể trọng, liên tục trong 3 ngày.
2. Bệnh cầu trùng (cocidiosis): Là bệnh khá phổ biến ở thỏ, gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi thỏ. Bệnh do đơn bào ký sinh Eimcria gây nên trong điều kiện chăn nuôi và vệ sinh kém. Có 2 dạng bệnh, cầu thang gan và cầu trùng ruột.
Thỏ con từ nhỏ đã nhiễm kén cầu trùng, kén này thường xuyên ký sinh trong cơ thể thỏ. Sau khi cai sữa, thỏ con tiếp tục nhiễm cầu trùng trong phân thỏ thải ra. Nếu mật độ nuôi nhốt lớn, nóng, ẩm, tốt tăm, ngột ngạt, dinh dưỡng kém... sức đề kháng của cơ thể giảm sút thì cầu trùng phát triển nhanh, mạnh: Vừa phân hủy tế bào gan, ruột, vừa tiết độc làm cho thỏ gầy yếu và chết dần, có khi chết hàng loạt, cao điểm 2-3 tháng tuổi.
Để phòng bệnh, sau khi cai sữa dùng các loại Sulfamit như Sulfaquinoxalin, Sulfathyazol, Sultadimethoxin... trộn với thức ăn tinh, với liều 0,1 - 0,2gr/kg thể trọng, cho ăn 7 ngày, nghỉ 3 ngày lại cho ăn tiếp 7 ngày sẽ hạn chế được sự phát triển của cầu trùng.
Nếu trong đàn đã có một vài con chết vì cầu trùng, thì có nghĩa là đàn thỏ đã bị nhiễm nặng cần dùng thuốc như trên với liều 2-3 lần, uống liên tục trong 10 ngày, kết hợp bồi dưỡng thức ăn giàu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng, sinh tố.
3. Bệnh tụ huyết trùng: Trong niêm mạc của thỏ thường có vi trùng Pasteurella tiềm sinh. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm sút, do cai sữa, thay đổi thức ăn, thời tiết đột ngột, mưa tạt, gió lùa, dinh dưỡng kém... thì vi trùng này phát triển nhanh, mạnh và gây bệnh ở nhiều dạng khác nhau như viêm phổi, viêm kết mạc, viêm màng ngoài tim, viêm não dẫn đến thỏ hay bị nghiêng đầu... Bệnh lây lan nhanh qua đường hô hấp. Bệnh tụ huyết trùng heo, gà cũng có thể lây lan cho thỏ.
Thuốc đặc trị là Streptomycin với Liều 0,1g/kg thệ trọng hoặc Kanamy- cin với liều 0,05gr/kg thể trọng, tất cả đều tiêm liên tục trong 3 ngày. Thỏ rất mẫn cảm với vi trùng Pasteurella, nên phải đề phòng bằng cách chăm sóc nuôi dưỡng tốt, mật độ vừa phải trong môi trường vệ sinh, không nuôi thỏ chung trong chuồng gà, chuồng heo, nguy cơ lây lan dịch bệnh rất cao.
Những bệnh cần chú ý khi nuôi thỏ
Bệnh đau bụng tiêu chảy
Thực chất của bệnh này là rối loạn tiêu hóa do chuyển tiếp thức ăn đột ngột, ăn nhiều rau, lá , củ quả chứa nhiều nước hoặc thức ăn nước uống bị dính tạp chất bẩn, dính nước mưa, nước sương, mùa đông uống nước lạnh hoặc thỏ nằm trên cao bị gió lạnh lùa vào bụng vv... Thỏ con sau cai sữa đến 3 tháng tuổi hay mắc bệnh này.
Phân thỏ lúc đầu hơi nhão, sau đó lỏng dần thấm dính bết lông quanh hậu môn. Thỏ kém ăn, lờ đờ, uống nước nhiều. Có khi thỏ bị chướng hơi, đầy bụng, thỏ không yên tĩnh, khó thở, chảy dãI ướt lông quanh hai mép.
Khi thấy phân thỏ nhão, cần đình chỉ thức ăn xanh, nước uống và các yếu tố môi trường không hợp vệ sinh. Cho thỏ ăn hoặc uống nước ép từ cây nhọ nồi, búp ổi, búp chè, quả hồng xiêm, cỏ sữa. Nếu bị bệnh nặng thì cho uống thêm Sulfaguanidin với liều 0,1 g/kg thể trọng/ngày và uống 3 ngày liền. Khi thấy thỏ chướng hơi thì cho thỏ uống thêm 1-2 thìa dầu thực vật và lấy tay vuốt hai bên thành bụng.
Phòng bệnh này chủ yếu bằng chế độ cho ăn hợp lý, đặc biệt là chế độ chuyển tiếp thức ăn dần dần từ thức ăn khô sang thức ăn xanh và tăng dần khối lượng. Thức ăn chứa nhiều nước cần phơi háo bớt nước trước khi cho ăn. Nên kết hợp thức ăn thô khô với thức ăn thô xanh trong khẩu phần hàng ngày.
Bệnh cầu trùng (Coccidiosis)
Đây là bệnh phổ biến, dễ gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi thỏ. Bệnh do đơn bào ký sinh (Eimeria) gây nên trong điều kiện chăn nuôi và vệ sinh kém. Có hai dạng bệnh cầu trùng: cầu trùng gan và cầu trùng ruột.
Từ lúc hai tuần tuổi, thỏ đã bắt đầu cảm nhiễm cầu trùng. Sau cai sữa mức độ nhiễm cầu trùng tăng lên dần và có khả năng gây bệnh. Nếu mật độ nuôI nhốt lớn, môi? trường ẩm? thấp, tối tăm, ngột ngạt, đặc biệt là thỏ đói, thiếu chất dinh dưỡng, sức đề kháng của cơ thể giảm sút thì cầu trùng sản sinh nhanh trong cơ thể thỏ. Cầu trùng vừa phá huỷ tế bào gan, đường ruột vừa tiết độc tố làm thỏ gầy yếu, nhiễm độc và chết, có khi chết hàng loạt vào cao đIểm 2-3 tháng tuổi. Thỏ từ 5-6 tháng tuổi trở đi ít bị chết do bệnh cầu trùng vì lúc này sức đề kháng của cơ thể cao, khả năng đồng hoá cả tế bào lớn hơn nên chống đỡ được quá trình gây bệnh của cầu trùng.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh cầu trùng ruột là thỏ xù lông, kém ăn, gầy dần, đôi khi ỉa chảy. Nếu kết hợp với vi khuẩn gây bệnh viêm ruột thì phân thường có màu đỏ do thấm máu. Đối với cầu trùng gan thì các triệu chứng lâm sàng giống như trên và còn thấy được niêm mạc mắt, miệng hơi vàng. Trước khi thỏ chết thường thấy thỏ quay vòng, dãy dụa.
Khi thỏ mắc bệnh ở mức nặng (thỏ gầy, nhiễm độc) thì rất khó có thể điều trị được. Cho nên cần phòng bệnh thật tốt từ khi thỏ con còn bú mẹ để ngăn cản sự lây lan mầm bệnh và phát bệnh . Biện pháp phòng bệnh như sau:
Đáy lồng chuồng phải có lỗ, rãnh thoát được phân dễ dàng. Hàng ngày phải quét dọn đáy lồng, rửa máng ăn, máng uống, không để thức ăn thô trực tiếp xuống đáy lồng.
Thức ăn các loại phải sạch sẽ, không bị ôi mốc, biến chất. Đảm bảo chế độ dinh dưỡng và số lượng thức ăn theo nhu cầu của từng thời kỳ sản xuất, đặc biệt là nhu cầu vitamin, khoáng, muối.
Sau khi cai sữa cần dùng các loạI sulfamix,? Sulfaquinoxalin, Sulfathiazol, Sulfadimethoxin trộn với thức ăn tinh với liều 0,1-0,2 kg/kg thể trọng, ăn trong 7 ngày liền, nghỉ 5 ngày lạI ăn tiếp 7 ngày nữa.
Nếu trong đàn có một số con chết vì bệnh cầu trùng thì cần cho uống thuốc như trên với liều gấp đôi để điều trị.
Bệnh ghẻ
Bệnh ghẻ là bệnh ký sinh trùng ngoài da rất phổ biến gây tác hại lớn trong chăn nuôi thỏ. Trong môi trường ô nhiễm ghẻ, mất vệ sinh, ghẻ có thể truyền nhiễm, ký sinh trên da thỏ thông qua các đồ vật, lồng chuồng, người chăn nuôi tiếp xúc với thỏ.
Bệnh ghẻ thể hiện ở hai dạng: ghẻ đầu do loài ghẻ Notoedres cuniculi ký sinh gây bệnh ở mí mắt, mũi, mép, có khi lan cả sang cổ, gáy và thường lan truyền sang móng chân, gót chân, da vùng hậu môn, cơ quan sinh dục. Dạng ghẻ tai do loài ghẻ Psoroptes cuniculi ký sinh, gây bệnh trong lỗ tai, vành tai.
Đàn thỏ con theo mẹ và thỏ 1-2 tháng tuổi có thể đã nhiễm ghẻ nhưng ít thể hiện ra triệu chứng lâm sàng. Bệnh thường phát triển nặng từ lứa tuổi trên 2 tháng trở đị.
Triệu chứng lâm sàng đặc trưng của? bệnh ghẻ là ngứa, rụng lông và đóng vẩy. Thỏ ngứa thì lấy hai chân trước cào vuốt tai vào mồm cắn, lắc đầu, dụi đầu vào thành lồng hoặc đồ vật xung quanh, hai chân trước vẫy vẫy, hai chân sau dậm dật xuống đáy lồng. Tại các đIểm ghẻ lúc đầu thấy rụng lông, sau đó thấy các vẩy rộp trắng xám, dầy cộm dần lên và khô cứng lại.
Nhiều khi ở dưới vẩy ghẻ có mủ do nhiễm trùng gây viêm da. Cơ thể bị nhiễm độc do ghẻ tiết ra, mất máu, thỏ không yên tĩnh, mất ngủ, kém ăn, gầy dần rồi chết.
 Hiện nay có thể sử dụng thuốc ghẻ Ivermectin tiêm dưới da một lần cho thỏ với liều 0,5 ml/2 kg thể trọng có tác dụng tốt. Nếu không có Ivermectin thì có thể lấy 50 g Dipterex, 40 ml cồn Iôt 20%? và 20 g bột lưu huỳnh pha trộn đều với 1 lít dầu thực vật để bôI 2 lần cách nhau 3-4 ngày. Trước khi bôI thuốc cần thấm nước xà phòng cho mềm vẩy để bóc hết.
Phải thường xuyên kiểm tra cá thể để phát hiện bệnh và điều trị bệnh kịp thời. Cách ly những con bị ghẻ và vệ sinh, xát trùng lồng chuồng, dụng cụ chăn nuôi khu vực quanh con bị bệnh.  
 
Nguồn: trungtamqlkdg.com.vn
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình