Trước đây, điều lệ hợp tác xã quy định có hai loại độ tuổi tối thiểu (từ 16 đến 18 tuổi trở lên) tùy theo loại hình hợp tác xã. Nhưng theo Luật hợp tác 1996 (Điều 22), chỉ còn một mức tuổi tối thiểu cho tất cả các loại hình hợp tác xã. Đó là 18 tuổi trở lên. Mức tuổi này là thích hợp vì chỉ với độ tuổi đó, người lao động mới có đủ thể lực và trí lực để hoàn thành tốt các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định đối với mỗi xã viên hợp tác xã.
Ngoài những điều kiện cũ, như:
- Người lao động phải đóng góp công sức vào sản xuất, kinh doanh tập thể;
- Tán thành Điều lệ hợp tác xã;
Điều 22 Luật Hợp tác xã còn quy định người lao động cần thỏa mãn thêm hai điều kiện nữa, là:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Có vốn góp (cổ phần).
Trong cơ chế quản lý kinh tế cũ, người lao động có thể được giảm hay miễn nghĩa vụ đóng góp (cổ phần). Nhưng trong cơ chế quản lý kinh tế mới, người lao động phải góp vốn (cổ phần) để hợp tác xã có cơ sở vật chất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của mình. Quy định này đảm bảo sự bình đẳng giữa các xã viên và làm cho các hợp tác xã thực sự là một tổ chức kinh tế chứ không phải là một tổ chức cứu trợ xã hội hay chuyên làm các công việc từ thiện. Nhưng để cho người lao động nào cũng thực hiện được nghĩa vụ góp vốn (cổ phần) Luật Hợp tác xã quy định người lao động có thể góp vốn một lẩn hay góp làm nhiều lần tùy theo quy định của Điều lệ hợp tác xã.
Để có được số vốn lớn làm cơ sở cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã có hiệu quả cao, đồng thời động viên, khuyến khích được người lao động có vốn nhàn rỗi đưa vào sản xuất, kinh doanh chung, Luật Hợp tác xã quy định: Người lao động có thể góp nhiều cổ phần vào hợp tác xã và được hưởng lãi cho các cổ phần đó.
Trong thực tế hợp tác hóa từ hàng chục năm nay, một người lao động có thể là xã viên của một số loại hình hợp tác xã khác nhau (ví dụ như HTX sản xuất nông nghiệp, HTX mua bán, HTX tín dụng…) Nhưng quyền này của người lao động chưa được một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể. Nay, Điều 22 Luật Hợp tác xã đã chính thức quy định trong Khoản 2 rằng: Một người lao động có thể gia nhập và là xã viên của nhiều hợp tác xã không cùng ngành nghề.
Từ khi có cơ chế khoán mới (theo Chỉ thị số 100, ngày 13-1-1981 của Ban bí thư và theo Nghị định số 10, ngày 5-4-1998 của Bộ Chính trị) hộ gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ, có quyền chủ động trong việc lập kế hoạch, hạch toán kinh tế và sản xuất, kinh doanh trên những diện tích đất được hợp tác xã giao cho. Vì vậy, Điều 22, Khoản 3 Luật Hợp tác xã đã nêu ra một chế định mới, là: Hộ gia đình có thể trở thành xã viên hợp tác xã. Đây là một chế định rất đặc biệt của Luật Hợp tác xã nước ta so với chế độ pháp lý xã viên hợp tác xã ở các nước khác |