Sự khác nhau giữa ngành nghề kinh doanh sử dụng trong đăng ký kinh doanh với ngánh nghề kinh tế quốc dân:
1) Phạm vi điều chỉnh: ngành nghề kinh tế quốc dân rộng hơn ngành nghề kinh doanh. Ngành nghề kinh tế quốc dân bao gồm toàn bộ hoạt động của các cơ quan và hiệp hội, những hoạt động không kinh doanh như các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội (ngành cấp I, số 17), hoạt động quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc (ngành cấp I, số 13), hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.
2) Về thẩm quyền: ngành nghề kinh tế quốc dân do nhà nước ban hành, các cơ quan thống kê và các cơ quan nhà nước khác phải tuân thủ việc báo cáo theo quy chuẩn của ngành nghề kinh tế quốc dân.
Ngành nghề đăng ký kinh doanh là của dân, dân có quyền đăng ký những ngành nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm, cơ quan đăng ký kinh doanh là người thư ký ghi lại những ngành nghề dân đăng ký kinh doanh. Do vậy, ngành nghề đăng ký kinh doanh được thiết kế theo nguyên tắc mở để có thể bổ sung những ngành nghề mới do dân sáng tạo.
Đối với dân không có cấp ngành nghề, dân đăng ký theo ý tưởng đầu tư của mình. Việc phân ngành nghề vào cấp nào là do nhà nước thực hiện để có sự phân tích phục vụ cho nhu cầu quản lý nhà nước.
3) Về mục đích: danh mục ngành nghề kinh tế quốc dân phục vụ cho việc phân tích để nhà nước quản lý, đề ra chính sách.
Danh mục ngành nghề đăng ký kinh doanh phục vụ cho dân tiện tra cứu và tìm tòi sáng tạo những ngành nghề mới.
Để kết hợp hài hòa hai mục đích này liên Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng Cục thống kê đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/2001/TTLB-BKH-TCTK ngày 1 tháng 12 năm 2001 để hướng dẫn nhà đầu tư |