Theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Pháp lệnh Hôn nhân và Gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài ngày 2 tháng 12 năm 1993 của Uy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX thì người nước ngoài được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam. Đây là quy định khá khái quát nên Luật Quốc tịch Việt Nam (được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 3, ngày 20 tháng 5 năm 1998) đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn về khái niệm “ người nước ngoài ”
Theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam thì có hai đối tượng cần phân biệt là : “ Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam ” và “ Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam ”.
Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam.
Người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam.
Như vậy, người nước ngoài – trong cả hai trường hợp – đều là công dân nước ngoài và người không quốc tịch. Người Việt Nam ở nước ngoài nếu đã thôi hoặc bị tước quốc tịch Việt Nam (theo các quy định tại Điều 24 và Điều 25 Luật Quốc tịch Việt Nam) thì khi về Việt Nam, họ được coi là người nước ngoài cư trú ở Việt Nam vì họ là công dân nước ngoài và đang tạm trú ở Việt Nam |