Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Có bao nhiêu nhãn thường được trồng ở Nam Bộ? Các giống này có đặc tính như thế nào?

 

Qua khảo sát, bình tuyển và hội thi cây giống tốt năm 1997 tại Long Định (Tiền Giang), các nhà khoa học đã khuyến cáo trồng một số giống nhãn tốt tại các tỉnh phía Nam, gồm có:

- Nhãn Tiêu da bò: Còn mang tên: Tiêu Huế, Tiêu da vàng, Long Tiêu Đường… là giống được trồng phổ biến tại đồng bằng sông Cửu Long hơn 20 năm qua với diện tích tăng nhanh từ 1992. giống này có lẽ được mang từ Huế vào trồng ở Nam Bộ. Tiêu da bò cho cây phát triển rất nhanh, năng suất cao (15-30 tấn/ha). Trái (nặng 8-12 g) có cơm dày (chiếm 60-65%), dai, ráo, hột hơi nhỏ. Trái chín có vỏ màu vàng nâu (da bò), trái đóng khít trên chùm và rất sai. Nhược điểm của giống là phải xử lý (khấc- để cây ra hoa (3 vụ/2năm), cây chịu úng kém, dễ bị bọ rầy ăn lá non và dễ bị sâu đục trái phá hoại.

- Nhãn xuồng cơm vàng: Là một biến dạng từ loại nhãn giồng ở Bà Rịa -Vũng Tàu (do trồng từ hột). Trái to (16-25 g), có dạng hình xuồng, dưới hai vai cao hơn cuống, cơm dày (chiếm 60-70%), ráo, giòn và ngọt nên được thị trường ưa chuộng với giá cao. Thường chỉ cho 1vụ trái/ năm, ra hoa tự nhiên. Năng suất ổn định trên 100 kg/cây/năm.

- Nhãn tiêu lá bầu: Còn gọi là Tiêu Đường, Tiêu Huế Đường… thuộc nhóm nhãn Tiêu da bò, xuất phát từ huyện Chợ Lách (Bến Tre). Giống này cho cây phát triển mạnh, năng suất cao (trên 90 kg/cây/năm ở cây 4-5 tuổi), cây ra hoa tự nhiên. Cho 3 vụ trái/2 năm. Lá kép cũng có 10 – 12 lá chét như tiêu da bò, nhưng lá ngắn hơn và bầu tròn (không nhọn như Tiêu da bò). Chùm trái sai, nhưng đóng khá thưa trái. Trái to hơn tiêu da bò (9 – 14g), trái non màu xanh, chín màu vàng nâu. Cơm trái  dày, ráo, dai, rất ngọt, thơm nhiều thịt trái (60 – 70%), hột khá nhỏ.

- Nhãn Super: là một biến dạng của giống nhãn Long, xuất phát từ huyện Long Hồ (Vĩnh Long). Cây dễ ra hoa tự nhiên, chò vụ/năm như nhãn Long (vụ 1: 06 – 07 dương lịch, vụ 2: 12 – 01dl), nhưng cho năng suất ổn định hơn (nhất là vụ 2). Chùm trái thường rất sai, nhưng trái đóng thưa. Trái to (10 – 14g) thịt dày cơm ráo, dòn, rất ngọt nhưng ít thơm, tỷ lệ cơm chiếm 65 – 70%. Tỷ lệ trái hột tiêu cũng rất cao (chiếm 60 – 80%).

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình