Con người thuộc loài răng mọc hai lần, mỗi lần trong cuộc đời, sẽ có hai loại răng là răng sữa và răng đã thay (răng vĩnh viễn). Mỗi người phải có 20 chiếc răng sữa, trong đó 8 chiếc răng cửa, 4 chiếc răng nanh và 8 chiếc răng hàm, thông thường răng sữa mọc trong khoảng thời gian từ 6 đến 2 năm sau khi sinh ra, tự rụng đi và thay răng, cho tới khi răng hàm mọc lên lần thứ hai thì trong khoang miệng tổng cộng có 28 chiếc răng, trong đó có 8 chiếc răng cửa, 4 chiếc răng nanh và 8 chiếc răng hàm hai đỉnh và 8 chiếc răng hàm nghiền. Hầu hết mọi người khoảng từ 18 đến 25 tuổi mới mọc răng hàm lần thứ ba (tức là răng khôn), cùng với sự tiến hóa của loài người, việc mọc răng hàm lần thứ ba đang có chiều hướng thoái hóa, có người ít đi một, hai chiếc, thậm chí hoàn toàn không có răng khôn. Do đó, người đã trưởng thành phải có từ 28 đến 32 chiếc răng.
Các bác sĩ để tiện cho việc ghi bệnh án, thông thường dùng hai vạch chữ thập "+" để chia hàm răng thành bốn khu vực trên, dưới, trái, phải. Bắt đầu từ gạch giữa, răng sữa dùng các chữ số La Mã từ I đến IV để phân biệt biểu thị răng cửa sữa giữa , răng cửa sữa bên, răng nanh sữa, răng hàm sữa thứ nhất và răng hàm sữa thứ hai; răng vĩnh viễn dùng các chữ số A Rập để biểu thị, từ 1 đến 8 phân biệt biểu thị răng cửa giữa, răng cửa bên, răng nanh, răng hai đỉnh thứ nhất, răng hai đỉnh thứ hai, răng hàm thứ nhất, răng hàm thứ hai và răng hàm thứ ba. Số của răng, tên và thứ tự sắp xếp.
Phương pháp biểu thị của răng sữa như sau :
V |
IV |
III |
II |
I |
I |
II |
III |
IV |
V |
V |
IV |
III |
II |
I |
I |
II |
III |
IV |
V |
Phương pháp biểu thị của răng đã thay như sau :
8 |
7 |
6 |
5 |
4 |
3 |
2 |
1 |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
8 |
7 |
6 |
5 |
4 |
3 |
2 |
1 |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 | |