Đại não của người nặng không quá 1400 gram, diện tích lớp võ đại não không rộng hơn một trang báo bình thường, ấy vậy mà nó có thể ghi nhớ mọi thứ, đó là trí nhớ. Trí nhớ chủ yếu dựa vào cơ quan cảm giác này giống như những ký giả đặc phái của hệ thần kinh trung ương, không ngừng đem những hiện tượng của thế giới bên ngoài mà chúng “ phỏng vấn” được báo về cho đại não. Đại não phát ra mệnh lệnh chính xác, có hiệu quả điều tiết khống chế cấp dưới của nó, thực hiện chức năng của vị tư lệnh. thế thì các ký giả “ phỏng vấn” như thế nào?
1. Mắt?
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Tục ngữ có câu, tinh thần nằm trong đôi mắt một người trạng thái tinh thần như thế nào thường biểu hiện trên đôi mắt. Ai cũng muốn có một đôi mắt trong sáng, đây không chỉ vì đôi mắt là cơ quan chủ yếu tạo nên dung mạo, điều quan trọng hơn là đôi mắt giống như chiếc máy ảnh, bất cứ lúc nào cũng có thể chụp được thiên nhiên muôn hình muôn vẻ để truyền vế cho đại não. Quá trình này chủ yếu do nhãn cầu chịu trách nhiệm hoàn thành.
Nhãn cầu gần giống như quả cầu, do thành nhãn cầu và các thành phần trong nhãn cầu tạo nên.
Nhãn cầu có lớp: ngoại mạc, trung mạc và nội mạc. Mỗi lớp có vị trí, tác dụng và đặc điểm khác nhau, cho nên mỗi lớp mạc có một cái tên khác nữa.
Ngoại mạc bao bọc lấy nhãn cầu, bao gồm giác mạc và củng mạc. Giác mạc chỉ chiếm 1/6 ngoại mạc, không màu trông suốt, chứa một số lượng đáng kể đầu mút thần kinh, cho nên cảm giác rất nhạy. Sau bộ phận giác mạc, ước chiếm khoảng 5/6 ngoại mạc chính là củng mạc. Củng mạc màu trắng, tương đối vững chắc, có tác dụng bảo vệ nội bộ nhãn cầu.
Trung mạc nằm trong ngoại mạc, từ phía trước tới sau nhãn cầu, nó bao gồm 3 bộ phận: tròng đen, tiệp trạng thể (bộ phận tạo ra dịch thể trong mắt và màng mạch). Tròng đen ở phía trước nhãn cầu, hình cầu dẹp, màu đen (dân tạo khác nhau, tròng đen có màu sắc khác nhau). giữa tròng đen có 1 lỗ nhỏ gọi là ngươi. Kích cỡ con ngươi do hệ thần kinh thông qua cơ nhẵn của màng mạch để điều tiết. Khi tia sáng bên ngoài quá mạnh, con ngươi co nhỏ lại; khi tia sáng yếu, con ngươi mở rộng. Trung mạc phía sau tròng đen dày lên, có hình vòng cầu gọi là tiệp trạng thể. nó có tác dụng điều tiết khúc độ của thủy tinh thể. Toàn bộ trung màng mặt sau của tiệp trạng thể gọi là màng mạch, chiếm khoảng 2/3 trung màng, màu là cọ nhạt, chứa nhiều huyết quản và tế bào sắc tố (tế bào sắc tố không trong suốt), vì vậy đối với mãn cầu màng mạch không chỉ có tác dụng dinh dưỡng, còn hình thành cho bộ nhãn cầu một buồn tối làm ảnh.
Nội màng là lớp màng tận cùng của thành nhãn cầu. Hình trạng giống như ruột bóng, dán chặt vào mặt trong của màng mạch gọi là võng mạc. Trên võng mạc có bố trí tế bào cảm quang, đặc biệt ở giữa võng mạc, chỗ đối diện với con ngươi và hướng lõm vào trong, tế bào cảm quang tập trung khá nhiều. Bởi vì chỗ này có màng nên gọi là đốm vàng, tia sáng của vật thể bên ngoài lọt vào đây, thị giác hình thành nên rõ ràng nhất. Trên võng mạc nơi thần kinh thị giác đi qua không thể có tế bào cảm quang, hình ảnh vật rơi vào chỗ này không đưa lại thị giác, nên, gọi là ám điểm.
Các thành phần, khác của nhãn cầu bao gồm thể thủy tinh, thủy tinh thể và phòng thủy. Những vật chất này điều trong suốt. Thủy tinh nằm ở phía sau tròng đen và con ngươi, hình dạng giống như đôi thấu kính lòi, giữa dày còn mép vòng quanh mỏng, giàu tính đàn hồi. Mép vòng quanh của nó treo giữa tiệp trạng thể nhờ dây chằng. Thủy tinh thể là chất keo, nằm giữa thể thủy tinh và võng mạc. Phòng thủy là dịch thể chứa đầy tiền phòng và hậu phòng.
Trên là những bộ phận chủ yếu của mắt, ngoài ra còn có các cơ để nhãn cầu chuyển động lên xuống, sang trái sang phải gắn liền tại củng mạc, các kết cấu phụ thuộc như mí mắt để bảo vệ nhãn cầu, kết mạc tuyến lệ…
Thông qua tìm hiểu về kết cấu mắt, bạn có thể phát hiện rằng mắt giống như cái máy ảnh, thế thì cái máy ảnh này chụp hình bằng cách nào nhỉ?
Trước ánh sáng phản chiếu vật thể ở bên ngoài, đi qua giác mạc, phòng thủy, từ đồng tiến vào “buồng tối” trong nhãn cầu. Qua khúc độ có thể điều tiết khúc xạ của thể thủy tinh, hình thành ảnh vật tại võng mạc. Tế bào cảm quang trên võng mạc, dưới sự tác động của ảnh vật, sinh ra một loạt các biến hoá, rồi đem các tin tức của ảnh vật này như hình dáng, kích cỡ, màu sắc men theo hệ thần kinh truyền tới trung khu thị giác của lớp vỏ đại não sinh ra thị giác. Vị lãnh đạo tối cao - đại não - qua mắt viên ký giả nhíp ảnh này không ngừng chụp ảnh, hiểu biết xung quanh, nhận thức được sự vật.
Mắt không chỉ có quan hệ mật thiết với đại não, mà còn có quan hệ mật thiết với toàn bộ cơ thể, bề ngoài của mắt nếu có gì không, bình thường thì thường xuyên hay phản ánh trong khoang sọ tồn tại các bện về ung bướu. Sự thay đổi mắt cũng có thể phản ánh tình trạng bệnh tật trong cơ thể. Mắt cũng rất dễ sinh bệnh, như bệnh đau mắt hột, viên giác mạc cấp tính v.v… bình thường phải chú ý vệ sinh cá nhân, không dùng chung khăn mặt và chậu rửa mặt với người đau mắt hột, không dùng tay dơ và khăn dơ lau mắt. Ngoài ra còn phải chú ý phòng bệnh cận thị. Phòng bệnh cận thị nên tuân theo các hướng dẫn dưới đây:
- Tư thế đọc sách, ngồi viết phải ngay ngắn, cự ly giữa sách và mắt giữ khoảng 35 cm.
- Khi xem sách khoảng 1 tiếng phải nghỉ vài phút, nhìn hướng ra xa một lát để thả lỏng cơ mi.
- Không nên đọc sách ở nơi ánh sáng mặt trời rọi trực tiếp hoặc thiếu ánh sáng.
- Khi đi đường hoặc không nên đọc sách, ngoài ra cũng nên thường xuyên tập thể dục cho mắt.
2. Tai?
Tai và mắt là hai ký giả song hành, chỉ có cách lấy tin của chúng khác nhau: mắt chụp ảnh, tai ghi âm.
Tai chia làm 3 bộ phận: tai ngoài, tai giữa và tai trong.
Tai ngoài gồm vành tai và ống tai ngoài, vành tai thu thập sóng âm, ống tai ngoài đem sóng tai truyền tới đường dẫn của tai giữa. Chức năng của chúng giống như ăng-ten của máy ghi âm.
Tai giữa do màng nhĩ, trung nhĩ và có 3 miếng thính tiểu cốt tạo thành. Màng nhĩ ở bộ phận đáy của ống ngoài, là một màng mỏng hình bầu dục, dưới tác động của sóng âm nó có thể sinh ra những rung động. Trong màng nhĩ là một gian phòng nhỏ gọi là trung nhĩ. Trong trung nhĩ có 3 miếng thính tiểu cốt, hình dạng đặt biệt kỳ lạ được gọi là xương búa, xương đe và xương đăng, chúng là những xương nhỏ nhất trong cơ thể người. Chúng nối liền với nhau một cách khéo léo. Màng nhĩ nối liền với tai nhờ 3 miếng thính tiểu cốt. Phía trước bên dưới màng nhĩ còn có một đường ống nhỏ dài, dẹp, thông với mũi là một yết cổ quản. Yết cổ quản thường đóng chặt, khi bạn nuốt hoặc hắt xì hơi thì miệng ống mở ra, không khí liền từ yết hầu đi vào trung nhĩ, khiến áp lực không khí trong và ngoài cân bằng, màng nhĩ có thể rung động bình thường. Kết cấu của tai giữa giống như một hệ thống thiết bị truyền thanh vậy.
Kết cấu của tai trong khá phức tạp, trong đó có một bộ phận giống như vỏ con ốc sên, gọi là ốc tai. Trong ốc tai có cơ quan cảm thụ thính giác, đây là thiết bị chuyên môn tiếp thụ sóng âm. Nó thông quan thần kinh thính giác và thần kinh có quan hệ với thính giác để liên lạc với trung khu thị giác ở lớp vỏ đại nạo. Bên tai trong còn có một bán quy quản do 3 ống hình nữa vòng tròn tạo nên. Giữa bán quy quản và ốc tai có một đơn vị gọi là tiền đình. Bán quy quản và tiên đình còn có một sứ mệnh nữa đó là bên trong chúng có đầu cảm trí được bố trí tại cơ quan cảm thụ. Những cơ quan cảm thụ này thông qua thần kinh thính giác và thần kinh có quan hệ với thính giác để liên hệ với đại não. Đại não lại thông qua một loạt các hoạt động khác để duy trì sự cân bằng của cơ thể.
Tai - vị ký giả ghi âm thanh này - dùng thiết bị ghi âm của mình như thế nào để tiến hành việc ghi âm?
Sóng âm ở bên ngoài qua tai ngoài (vành tai và ống tai ngoài) được thu lại và truyền tới màng nhĩ, sóng âm gây nên những rung động ở màng nhĩ. Màng nhĩ rung liền được 3 miếng thính tiểu cốt chuyển tới tai trong, tác động lên cơ quan cảm thụ thính giác trong ốc tai, cơ quan cảm thụ thính giác bằng phương thức đặc biệt đem lại những tin tức của thanh âm đi dọc theo thần kinh thính giác và thần kinh có quan hệ với thính giác chuyển tới trung khu thính giác ở vỏ đại não, hình thành nên thính giác. Vị lãnh đạo tối cao “đại não”, qua ký giả ghi âm, lượm tin của tai, nhận biết được sự vật quanh mình.
Kết cấu tinh tế lại rất mềm yếu của lỗ tai, qua tai ngoài để liên lạc với thế giới bên ngoài, thông qua yết cổ quản để thông với yết hầu. Như vậy thì cũng tăng thêm cơ hội tiếp xúc với vi khuẩn gây bệnh. Một khi vi khuẩn gây bệnh đã xâm nhập vào thì rất dễ dàng dẫn đến chúng bệnh viêm nhiễm. Nếu bị viêm nặng thành điếc tai, sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của các cơ quan khác trong cơ thể. Vì vậy chúng ta nhất định phải chú ý đến vệ sinh tai, bảo vệ tốt lỗ tai.
Về vệ sinh tai, chúng ta cần chú ý mấy điểm sau:
1. Không dùng các đồ vật ngoáy lỗ tai: có nhiều người dùng kẹp tóc, que diêm, đồ móc tai và các đồ cứng khác để ngoái lỗ tai, lấy ráy tai đây là một thói quen xấu. Tùy tiện dùng các dụng cụ cứng ngoái tai dễ làm tổn thương màng nhĩ và đường tai ngoài. Màng nhĩ bị tổn thương ảnh hưởng đến thính lực, đường tai ngoài bị tổn thương dễ dàng để vi khuẩn xâm nhập vào lớp da đường tai ngoài gây nên nên ghẻ lỗ tai. Tai ngoài mà ghẻ lở thì tai trong cũng đau nhức khó chịu, trường hợp nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng đến học tập, nghỉ nhơi và ăn uống. Nếu có dị vật rơi vào tai ngoài, nên nhờ bác sĩ chuyên khoa giúp đỡ.
2. Đề phòng những chấn động có thể làm rách màng nhĩ: khi gặp những tiếng động chói tai, phải nhanh chóng há to miệng, lúc đó yết cổ quản mở ra, áp lực khí trong và ngoài màng nhĩ được giữ cân bằng, tránh bị rách màng nhĩ.
3. Đề phòng viêm tai giữa: viêm tai giữa chỉ có một loại, nguyên nhân gây bệnh cũng khác nhau. Bình thường cũng phải chú ý tránh các bệnh viêm nhiễm mũi, hầu, họng, nên dùng nước muối xúc miệng để giữ cho khoang miệng luôn sạch sẽ. Tích cực đề phòng cảm nhiễm đường hô hấp, khi bị cảm cúm không nên xì mũi quá mạnh, tránh phát sinh bệnh viêm tai giữa.
3. Lưỡi?
Lưỡi là cơ quan nói, nó còn có tác dụng nhai và nuốt thức ăn. Ngoài những tác dụng kể trên, nó còn có thể kiểm nghiệm mùi vị của thức ăn và đem mùi vị kiểm nghiệm được ấy, bằng phương thức đặc thù bẩm báo với đại não, sinh ra vị giác, căn cứ vào vị giác người ta có thể chọn lựa những món ăn ưa thích. Từ tác dụng này của lưỡi, và xét trên quan hệ của nó và đại não, nó thật giống đặc phái viên “thu lượm mùi vị” của đại não! Vậy lưỡi kiểm nghiệm mùi vị, bẩm báo các vị giác sinh ra với đại não như thế nào?
Bề mật và hai bên lưỡi có vô số sợi tua nhỏ li ti. Những sợi tua bé nhỏ bên trong được sắp xếp rất nhiều kết cấu cực nhỏ gọi là nụ vị, mỗi một nụ vị có sự liên lạc với hệ thần kinh. Nụ vị chính là máy kiểm nghiệm mùi vị. Lưỡi nhờ nụ vị phân biệt chua, ngọt, đắng, mặn. Nụ vị không chỉ kiểm nghiệm mùi vị, nó còn có thể thông báo cho thần kinh tin tức về mùi vị một cách chính xác, gởi đến cho đại não sinh ra vị giác. Nếu như một nụ vị của đầu lưỡi mẫn cảm nhất với vị ngọt, thì nụ vị của cuống lưỡi rất nhạy với vị đắng, còn nụ vị ở hai bên lưỡi thì đo được vị chua một cách dễ dàng nhất. Bạn có thể làm một thí nghiệm nho nhỏ: dùng một miếng bông gòn nhỏ chấm vào nước đường, sau đó bôi lên khắp lưỡi, bạn sẽ phát hiện được bộ phận mẫm cảm với vị ngọt nhất chính là đầu lưỡi.
Lưỡi không chỉ là “ký giả lượm thông tin” của đại não vị giác, nó còn có mối quan hệ vô cùng mật thiết với tim, lá lách, dạ dày.
4. Mũi?
Mũi là cửa khẩu của hệ hô hấp. Ngoài chức năng lọc khí trừ độc trong khí để hấp thụ vào cơ thể, nó còn bộ tư lệnh tối cao chuyên thu lượm mùi. Bộ phận trên của niên mạc trong khoang mũi là cơ quan cảm thụ khứu giác. Nó chuyên cảm nhận những kích thích bằng mùi của vật chất. Sau mỗi lần nó thu nhận được kích thích mùi vị của vật chất nào đó trong không khí, thông qua phương thức đặc thù, nó đem thông tin về mùi đó mang theo thần kinh khứu giác truyền đến lớp vỏ đại não, hình thành khứu giác.
Trong sinh hoạt hàng ngày nếu không có khứu giác, không chỉ khô khan nhạt nhẽo, không phân được lâu là hương thơm đâu là mùi hôi thối, mà còn có thể hít nhằm khí độc hại cho cơ thể.vì thế mũi - là một trong những trợ thủ đắc lực của vị tư lệnh tối cao “đại não”. |