Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Chăm sóc sức khoẻ
Mối nguy hiểm của hội chứng cao huyết áp khi mang thai.

Hội chứng cao huyết áp khi mang thai là hội chứng đặc biệt có trong thời kỳ mang thai, thường phát sinh từ khi thai được 20 tuần đến 48 giờ sau khi sinh. Trước đây, hội chứng này được gọi là nhiễm độc thai nghén. Từ năm 1984 - 1988, tổ hợp tác nghiên cứu khoa học về phòng trị hội chứng cao huyết áp khi mang thai của Trung Quốc đã thông qua việc điều trị nhiều bệnh dịch học, phát hiện: Tỷ lệ phát bệnh của bệnh này là 9,4% - 10,32%, trong đó, tỷ lệ phát sinh dấu hiệu co giật là 1,7%, co giật là 0,2%. Trong số những người bị co giật, tỷ lệ mắc bệnh trước khi sinh, khi sinh và sau khi sinh là 49: 31: 20. Theo báo cáo của các tư liệu nước ngoài, tỷ lệ phát bệnh hội chứng cao huyết áp khi mang thai là 3,2% - 12,6%. Hội chứng cao huyết áp khi mang thai là một trong những nguyên nhân gây nguy hiểm đến sự an toàn của mẹ và con. Năm 1990, theo nghiên cứu và điều tra về cái chết của 247 thai phụ và sản phụ trong gần 100 triệu người trên toàn Trung Quốc cho thấy, có sáu nguyên nhân gây ra cái chết của thai phụ và sản phụ là: Xuất huyết sản khoa, hội chứng cao huyết áp khi mang thai, bệnh tim, nhiễm trùng khi sinh, nghẽn nước ối và bệnh gan. Hội chứng cao huyết áp nặng khi mang thai dẫn đến tỷ lệ tử vong của trẻ trong thời kỳ sinh cao đến 51,50/00 - 98,70/00. Những năm gần đây, do tăng cường công tác bảo vệ sức khỏe trong thời kỳ mang thai, tiến hành theo dõi trọng điểm đối với nhóm người bị nguy hiểm cao, làm giảm tỷ lệ mắc hội chứng cao huyết áp khi mang thai và tỷ lệ tử vong của mẹ và con.

Những biến chứng và nguy hiểm của hội chứng cao huyết áp khi mang thai:

(1) Bệnh tim do hội chứng cao huyết áp khi mang thai: Chủ yếu là do sự co thắt của động mạch vành và những động mạch nhỏ tuần hoàn xung quanh, làm giảm cung lượng tim, tăng cao lực cản trở quá trình bơm máu của tim, làm tổn hại đến chức năng của tim. Một nguyên nhân khác là do chứng hạ protein huyết, chức năng hệ thống ferritin(1)- chất làm căng mạch máu - aldosteron(2) không ổn định, làm tăng tính thẩm thấu của mạch máu nhỏ ở phổi, dẫn đến chứng phù phổi.

(2) Chứng đột quỵ (tràn máu não): Đây là loại hậu quả của sự ngừng mạch máu chảy tới não. Bệnh nguyên thủy là ở tim hay các mạch máu, tác động lên não là thứ phát. Dòng máu có thể bị ngăn lại do đông máu (chứng huyết khối), do một cục đông tách ra và đóng lại một động mạch (vật nghẽn mạch), hay do vỡ thành động mạch (xuất huyết). Đột quỵ có thể thay đổi mức độ nghiêm trọng, từ một cơn yếu thoáng qua hay có cảm giác bị kiến bò trong chi, cho tới liệt, hôn mê và tử vong.

Hội chứng cao huyết áp nặng khi mang thai thường gây co thắt mạch máu não thoáng qua có thể làm não thiếu máu, phù não, dẫn đến dấu hiệu co giật hay triệu chứng co giật. Nhưng nếu động mạch nhỏ của não co thắt nghiêm trọng, huyết áp tối thiểu hơn 110mmHg, hay huyết áp trung bình động mạch lớn hơn 140mmHg có thể hình thành cục nghẽn não, xơ cứng não, xuất huyết não và xuất huyết khoang dưới nhện.

(3) Suy chức năng thận: Do sự co thắt của động mạch nhỏ, làm giảm lưu lượng máu trong thận, giảm tỷ lệ lọc nước của tiểu cầu thận, dẫn đến ít nước tiểu hay không có nước tiểu. Biểu hiện ở tình trạng nước tiểu giảm, albumin niệu với lượng lớn, tế bào máu trong nước tiểu và trục niệu, acid uric trong máu, ceatinin, urea nitrogen và kali trong máu tăng cao, và kem theo biểu hiện nhiễm acid.

(4) Nhau thai bong sớm: Do sự co thắt động mạch nhỏ của nhau thai và xơ cứng động mạch dẫn đến lông tơ ở nhau thai thiếu máu, hoại tử, cứng và xuất huyết do mạch máu nứt làm phát sinh sung huyết sau nhau thai. Sung huyết tăng gây nhau thai bong sớm.

(5) Rối loạn chức năng đông máu: Trong quá trình phát bệnh hội chứng cao huyết áp khi mang thai, thì đã tồn tại hiện tượng đông máu khác thường và hệ thống tự hủy fibrin3 khác thường. Lông tơ của nhau thai thiếu oxy nặng hơn, nhất là khi xuất hiện hiện tượng nhau thai bong sớm, giải phóng thromboplastin, dễ dẫn đến đông máu rải rác trong lòng mạch. Dưới tác dụng của chất nội mô và chất huyết khối A2, tăng cường tác dụng co rút mạch máu và tập trung tiểu cầu máu, làm tăng đông máu rải rác trong lòng mạch.

(6) Hội chứng HELLP: Biểu hiện chủ yếu là tan máu, enzym gan tăng cao, giảm tiểu cầu máu. Hội chứng cao huyết áp nặng khi mang thai thì tỷ lệ phát bệnh 10%. Hội chứng này ngoài việc có biểu hiện của hội chứng cao huyết áp khi mang thai, thường kèm theo cảm giác khó chịu toàn thân, buồn nôn, đau bụng trên, gan to, vàng da, có dấu hiệu xuất huyết, nước trong bụng nhiều, trụy hô hấp và suy tim. Kiểm tra hóa nghiệm thấy phần cuối mẫu phết máu của tế bào máu có màu sắc lạ, giảm tiểu cầu máu, tăng caroten, enzym gan (sự chuyển hóa amin, lactat dehydrogenase) tăng cao. Những thai phụ mắc bệnh này có nguy cơ do nhau thai bong sớm, phù phổi, suy thận cấp tính. Mức độ đông máu rải rác trong mạch máu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến trước và sau hội chứng HELLP.

(7) Thai nhi phát triển chậm hay thai chết trong tử cung: Hội chứng cao huyết áp khi mang thai dẫn đến phát sinh tỷ lệ IUGR cao đến 10,5% - 35%. Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh trong thời kỳ đạt 77,70/00. Nguyên nhân chủ yếu của nó là do sự co thắt trong động mạch nhỏ toàn thân làm giảm lưu lượng máu của thai nhi và gây tử vong. Tăng vữa động mạch sàng nhau thai của hội chứng cao huyết áp nặng khi mang thai, gây cản trở và giảm việc sử dụng đường glucose, đồng thời, giảm nhanh chóng chức năng của nhau thai, có thể dẫn đến thai chết trong tử cung. Hội chứng cao huyết áp khi mang thai còn gây hiện tượng sinh non, trẻ chết sau khi sinh, trẻ sơ sinh ngạt thở,...

(8) Chức năng tuần hoàn suy giảm sau khi sinh: Chủ yếu do thai phụ mắc hội chứng cao huyết áp nặng khi mang thai, hạn chế sử dụng muối trong thời gian dài dẫn đến chứng natri trong máu thấp và hormon hướng vỏ thượng thận do nhau thai tiết ra giảm dẫn đến giảm corticoid. Sau khi sinh, sức ép bụng giảm dẫn đến máu ngưng trệ. Dùng thuốc trị co thắt và thuốc giảm áp làm cho mạch máu mở rộng và thai phụ bị mất máu, bị thương...

Trong đó, chứng đột quỵ và hội chứng cao huyết áp khi mang thai kèm theo suy tim và rối loạn chức năng đông máu là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong cho thai phụ mắc hội chứng cao huyết áp khi mang thai. Có thai phụ mắc hội chứng cao huyết áp khi mang thai, sau khi sinh thì huyết áp không thể trở về trạng thái bình thường mà hình thành chứng cao huyết áp vĩnh viễn. Đây là di chứng của hội chứng cao huyết áp khi mang thai

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình