Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Chăm sóc sức khoẻ
Phẫu thuật tạo hình âm đạo bằng đường dưới trong hội chứng Rokitansky - Kuster - Hauser

 

Những dị dạng đường sinh dục thường gặp trong phụ khoa. Đặc biệt trong hội chứng: Rokitansky-Kuster-Hauser (R-K-H) là hội chứng không có âm đạo. Tần suất đến nay cũng khó có thể đánh giá?

Owens có 6/500.000 bệnh nhân vào viện Charity ở New-Orleans tỉ lệ là 1/83.000 theo Engsted là 1/5.000 trẻ mới đẻ. Bệnh viện phụ khoa Lyon trong 7 năm có: 6/7.150 bệnh án, có tỉ lệ là 1/1.250. Khoa phụ sản bệnh viện Oran, Algérie tỉ lệ là 1/4.200. Giáo sư Kiherie Ichnohe (Nhật Bản): 1/5.000 (1994). Ỡ Việt Nam (giáo sư Đinh Văn Thắng) tỉ lệ khoảng 1/10.000.

Những dị tật âm đạo thường được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật tạo hình âm đạo, đặc biệt là trong hội chứng R-K-H.

Hơn một thế kỉ qua đã có nhiều phương pháp phẫu thuật được áp dụng, từ một phương pháp đơn giản nhất là tạo ra một cái hốc giữa phên bàng quang và trực tràng đến việc áp dụng phương pháp dị ghép, đồng ghép và tự ghép (Baldwin, 1904; Dupuytren, 1817; Frank, 1927; Ott, 1929; Brindeau, 1934; Brian và Coll, 1949; Williams, 1964; Jackson, 1965; Chellei và Coll, 1968).

Phẫu thuật tạo hình âm đạo gần đây hay được áp dụng như mảnh tự ghép bằng da (Lafon và Bonsfos, 1934; Mc Indoe, 1938; Miller, 1957) hoặc mảnh ghép là một qui ruột sigma (Wallace, 1907; Albrecht, 1912, 1913; Ruge, 1914-1918-1935; Franjenberg, 1930; Hajbuk, 1931; Champeau, 1963, Novak, 1964; Cognat và Coll, 1965).

Dị tật âm đạo gồm có hai nhóm:

Nhóm có vách ngăn: Vách ngăn ngang và vách ngăn dọc âm đạo. Loại vách ngăn dọc chia âm dạo ra thành hai lỗ, hoặccó một lỗ tịt phía dưới.

Nhóm âm đạo teo có hai nhóm: loại âm đạo teo hoàn toàn thường gặp với tử cung sơ khai là hội chứng R-K-H hoặc loại âm đạo teo hoàn toàn nhưng tử cung còn chức năng.

Loại âm đạo teo một phần: Có thể teo ở phần dưới, phần giữa hay phần trên của âm đạo.

Đã có nhiều phương pháp mổ tạo hình âm đạo khác nhau, song đa số những phương pháp đó cho những kết quả không hoàn hảo do có nhiều biến chứng và những tai biến khác nhau trong thời gian trong và sau phẫu thuật, thậm chí còn đưa đến kết quả tử vong cũng như kết quả lâu dài sau phẫu thuật.

Về mặt kinh tế đây là phẫu thuật vô giá và nhân đạo.

100% bệnh nhân có hội chứng R-K-H: thường rối loạn tâm thần, 50% tự tử. Ở Miền Nam Việt Nam hầu hết đi tu.

Phương pháp mổ tạo hình âm đạo mà chúng tôi yêu cầu cần được giải quyết, những đòi hỏi sau đây:

Phải đạt được mục đích là đưa lại bệnh nhân ở vị trí xã hội tốt hơn: không đe dọa cuộc sống của bệnh nhân; không cắt sẹo một tổ chức nào hoặc một bộ phận nào của bệnh nhân; không gây một vết sẹo nào trên cơ thể bệnh nhân; âm đạo tạo hình được sử dụng sớm (một tháng sau mổ); về tổ chức học và tế bào học của âm đạo tạo hình mang tính chất của một âm đạo bình thường.

Thời gian phẫu thuật nhanh (25-30 phút) và thời gian nằm viện cũng ngắn nhất (12 ngày).

Kỹ thuật mổ tạo hình âm đạo

Chỉ định: Hội chứng R-K-H hoàn toàn, hoặc âm đạo có độ sâu dưới 2cm (trước hoặc sau khi lấy chồng).

Loại ứ máu kinh tử cung hoặc ứ máu kinhâm đạo do teo một phần âm đạo.

Dính âm đạo do sau chấn thương, thủ thuật sản khoa bằng đường dưới (do foocxep hoặc giác hút thai)

Chuẩn bị bệnh nhân: cần giải thích kỹ cho cặp vợ chồng bệnh nhân mục đích mô tạo hình âm đạo là đểgiai hợp mà thôi, còn vấn đề vô sinh và vô kinh là vĩnh viễn.

Các xét nghiệm cơ bản

Các xét nghiệm khác gồm: định lượng oestrogène toàn phần theo phương pháp Brown, 17- cétostéroides và déhyđroépiandrostérone, chomatine sexuelle caryotype, U.IV, soi ổ bụng, chụp điện quang cột sống, chụp điện quang với bơm hơi tiểu khung, làm siêu âm vùng tiểu khung.

Chụp X quang nghiêng vùng tiểu khung: sau khi bơm đầy chất cản quang vào bàng quang và đặt một ống thông đái bằng kimloại vào niệu đạo, đặt một nến Hégar số 26 vào trực tràng, chụp vùng tiểu khung tư thế nghiêng để xác định chiều dày của tổ chức xơ giữa phên niệu đạo bàng quang- trực tràng (thường dày khoảng dưới 0,5cm).Chú ý xem có dị dạng niêu đạo không (niêu đạo hạ thấp).

Thụt tháo sạch vùng đại tràng như chuẩn bị một cuộc mổ đại tràng, ăn lỏng, hoặc ănsữa 3 ngày trước mổ, uống ganidan hoặc clorocid từ 3 đến 5 ngày, chuẩn bị thuốc gây táo bón sau mổ từ 3 đến 5 ngày.

Dụng cụ

Khuôn: chất liệu làm bằng bọt biển, hình ống và phải có độ giãn nở thật tốt, được bọc bằng hai cái capot. Khuôn, dài 12cm, đầu trên to đường kính 5cm, đầu dưới đường kính 3 đến 4cm. Một ống thông Nelaton nhỏ có đục nhiềulỗ và được đặt vào giữa trục của khuôn; nhờ có đầu dưới của sonde được tự do nên có thể làm giảm thể tích của khuôn bằng cách dùng ống tiêm 20ml khi vào đầu sode, sẽ làm khuôn luôn luôn áp chặt vào thành âm đạo tạo hình.

Màng ối: có thể lấy trong những trườg hợp mổ lấy thai không có nhiễm trùng, hoặc những trường hợp đẻ thường không có hiện tượng nhiễm trùng ở buồng ối hoặc ở âm đạo; màng ối được lấy đểchuẩn bị trước từ 1 đến 2 giờ trước khi sử dụng (không lấy ngoại sản mạc) và ngâm vào dung dịch Ringer hoặc huyết thanh mặn đẳng trương + 1 ống gentalline.

Một ống thông bàng quang (Foley)

Một kim chọc dò tuỷ sống

Một ống tiêm 20ml

Dung dịch novocaine 0,25% + 2ml adrénaline 1%.

Kỹ thuật mổ: Bệnh nhân nằm tư thế phụ khoa, mổ đường dưới

Gây mê toàn thân (nội khí quản)

Dùng kim dài, loại kim chọc dò tuỷ sống có lắp ống tiêm 20ml chọc vào khoang nơi giữa màng trinh (giữa 3 và 9 giờ) và dưới niệu đạo 1,5cm, kim chọc thẳng vào khoang niệu đạo bàng quang - trực tràng. Có thể dùng ngón tay trỏ trái thăm dò trực tràng để dẫn đường cho kim chọc dò, bảo đảm kim không chọc phải bàng quang hay trực tràng. Nếu hút ra nước tiểu là kim chọc vào bàng quang, nếu hút ra hơi là kim chọc vào trực tràng, lúc đó cần sửa lại đường đi của kim. Kim này được coi là kim dẫn đường cho việc bóc tách sau này. Kim được để cố định tại đó

Bơm vào khoảng giữa bàng quang và trực tràng dung dịch novocaine có andrénaline, mục đích làm tăng bề dày khoang này lên đễ dễ dàng cho việc bóc tách hốc âm đạo.

Dùng dao mổ rạch một đường ngang (giữa 3 và 9 giơ, ngay sát dưới kim đã dẫn đường rồi dùng hai ngón tay trỏ để bóc tách khoang giữa bàng quang và trực tràng, dùng kéo đầu tày cắt những tổ chức xơ khi bóc tách (chú ý: tổ chức xơ giữa bàng quang và trực tràng thường là mỏng, khoảng dưới 0,50cm).

Bóc tách khoang giữa bàng quang và trực tràng vào sâu đến sát phúc mạc của tiểu khung. Phía trên cần bóc tách rọ6ng sang hai bên để đề phòng sự teo hẹp vùng đĩnh của âm đạo tạo hình sau này, và chú ý vùng cơ thắt đáy chậu cũng thường là nơi gây chít hẹp phần giữa âm đạo sau này.

Có thể kết hợp soi ổ bụng trong khi phẫu thuật để quan sát vùng tiểu khung, vừa quan sát được rõ sự bóc tách ở phía dưới để tránh gây thủng phúc mạc tiểu khung vào trong ổ bụng.

Cầm máu bằng dao điện hoặc bằng buộc chỉ catut nhỏ.

Khuôn đã được chuẩn bị trước, đã có màng ối được phủ trên toàn bộ khuôn (trung sản mạc được quay ra phía thành âm đạo tạo hình).

Khuôn được đặt dễ dàng vào hốc âm đạo tạo hình và khuôn được căng phồng và áp sát vào thành âm đạo tạo hình bằng cách bơm hơi thêm vào đầu dưới của sonde đặt trong khuôn 20ml khí.

Khuôn được cố định trong âm đạo tạo hình bằng khâu 3 sợi chỉ nylon mũi rời nơi môi lớn (mũi chỉ khâu tạm thời). Cần chú ý khi khâu tránh thương tổn tuyến Bartholin.

Đặt một sonde Foley vào bàng quang và tránh dò rỉ nước tiểu vào vùng mổ trong thời gian hậu phẫu vì đây là nguyên nhân gây nhiễm trùng vết mổ và gây thất bại.

Băng vô trùng vùng âm hộ

Theo dõi hậu phẫu

Trong 5 ngày tiêm kháng sinh: 2gr/ngày

Giảm đau, an thần dolosal, valum: tiêm bắp/ngày 1 ống trong 3 ngày

Rửa vùng âm hộ ngày 2 lần trong 7 ngày (dung dịch mercryl – laurylé và oxy già).

Uống thuốc gây táo bón trong 5 ngày.

Cắt chỉ sau 8 ngày

Đặt mỏ vịt âm đạo tạo hình dễ dàng và chấm nhẹ nhàng thành âm đạo bằng dung dịch mercryl – laurylé và oxy già.

Thay khuôn hàng ngày trong 4 ngày và dùng nịt bằng cao su để giữ khuôn cố định trong âm đạo.

Xuất viện sau 12 ngày

Theo dõi ngoài viện

Hướng dẫn bệnh nhân tự đặt khuôn và làm vệ sinh vùng âm hộ tại nhà. Tháng đầu: một tuần khám kiểm tra một lần. Tháng hai: hai tuầnkhám kiểm tra một lần. Tháng 3 đến tháng thứ 4: một tháng kiểm tra một lần. Tháng 7 đến tháng thứ 12: hai tháng kiểm tra một lần.

Kết quả:

Số lượng bệnh nhân tuổi từ 16-27,7 ca; tuổi từ 28-37, 4 ca.

Tổng số: 11 ca

Lí do đến khám: vô sinh nguyên phát: 2 ca. Không giao hợp được bình thường: 9 ca. Tổng cộng: 11 ca.

Các dị dạng phối hợp:

Dị dạng tiết niệu:

1 ca sa thận trái trong hố chậu trái;

1 ca sa thận phải trong hố chậu phải (ca sa thận phải có kèm niệu quản phải ngắn và teo nhỏ nằm bất thườnh vào mặt trước của bàng quang): 1 thận phải teo nhỏ; 1 thận trái teo nhỏ.

Những dị dạng đường tiết niệu kèm theo ở những bệnh nhân trong hội chứng R-K-H là do nguyên nhân hệ thốg tiết niệu sinh dục có cùng một nguồn gốc của bào thai.

Thời gian theo dõi:

1-2 năm: 4 ca;

3-4 năm: 7 ca

Tổng số: 11 ca

Kết quả gần và xa: sau mổ tạo hình âm đạo trở về gia đình, bệnh nhân phấn khởi về tinh thần thay thế nỗi lo âu buồn tủi đã day dứt ấp ủ lâu ngày, và đã có nhiều cặp vợ chồng sắp li hôn vì dị tật này. Về mặt tình dục vợ chồng đã sinh hoạt được bình thường, về mặt khoái cảm bệnh nhân cho biết tốt hơn trước nhiều.

Việc thăm khám phụ khoa: đặt mỏ vịt dễ dàng, thành âm đạo tạo hình mềm mại, màu hồng nhạt, vòm âm đạo tạo hình tròn, rộng và di động dễ dàng.

Âm đạo tạo hình có độ tiết dịch đủ.

Niêm mạc âm đạo tạo hình đã được chứng minh qua sinh thiết và làm phiến đồ âm đạo với phương pháp nhuộm màu Papanicolaou với đủ các giai đoạn như một âm đạo bình thường dưới ảnh hưởng của nội tiết buồng trứng trong một vòng kinh.

Độ sâu của âm đạo tạo hình đo được từ 10 đến 12cm, đỉnh âm đạo đường kính rộng 5cm và phía ngoài lỗ âm đạo từ 3-4 cm.

PH âm đạo: thay đồi bắt đầu từ kiềm tính/giữa 11-12 thời kì sau phẫu thuật, sau 2 tháng pH âm đạo toan tính từ 5-6.

Chụp hình âm đạo tạo hình có đặt khuôn: xác định độ dài, rộng và sự đều đặn của thành âm đạo tạo hình. Và chụp hình âm đạođã chứng minh cho những kết quả lâu dài của mô tạo hình âm đạo.

Những bệnh án

- Bệnh án số 1: bệnh nhân “B.M” 27 tuổi, trú quán tại Ain Défla lấy chồng đã được 6 năm, vào viện ngày 8/6/1983 với hội chứng R-K-H hoàn toàn nên suốt 6 năm trời chỉ giao hợp ngoài âm hộ. Bệnh nhân được mổ ngày 10/6/1983 sau mổ kết quả tốt, ngày thứ bảy cắt chỉ âm hộ, sau 12 ngày bệnh nhân ra việc và đã được theo dõi tiếp.

 

Xét nghiệm công thức máu: bình thường sau mổ 41 tháng.

 

Thư gửi của bệnh nhân “B.M”, trú quán ở Ain 0 Défla, lấy chồng đã 6 năm và đã đi khám phụ khoa ở nhiều bệnh viện và bác sỉ phụ khoa tư nhân. Trước khi mổ tư tưởng lo lắng, buồn và thất vọng. Nhờ sự động viên và tận tình giúp đở của bác sỉ phụ khoa Việt Nam sau khi được ra viện tôi đã hết lo lắng buồn phiền, tinh thần được thoải mái, hiện nay sức khỏe của tôi rất tốt, vợ chồng tôi hiện nay giao hợp được bình thường và khoái cảm nhiều so với trước lúc mổ. nay tôi đã có một gia đình yên ấm thật sự, tôi xin chân thành cảm ơn bác sĩ.

- Bệnh án số 2: cô “M.F” trú quán tại Arib tỉnh Ain Défla 18 tuổi. Vào viện vớilí do vô kinh nguyên phát với hội chứng R-K-H hoàn toàn, UIV thận phải teo và sa vào vùnghố chậu phải, soi ổ bụng buồng trứng phải teo nhỏ, đường kính 1cm.

Thư gửi của bệnh nhân “M.F” 18 tuổi, trước khi mổ tôi vô cùng lo lắng và đau vùng bụng dưới. Sau khi thăm khám tôi được bác sĩ cho biết là tôi không có âm đạo và phải mổ để tạo hình âm đạo, lúc đầu tôi rất lo sự về bệnh của tôi, nhưng với sự giải thích và động viên của bác sĩ, tôi đã mạnh dạn xin mổ và nay kết quả tốt. Trong tương lai sắp tới tôi sẽ lấy chồng. Tôi xin cảm ơn bác sĩ đã tận tình điều trị cho tôi.

Bình luận:

Từ cuối thế kỉ trước cho đến ngày nay đã có rất nhiều phương pháp do nhiều tác giả trên thể giới đã áp dụng trong mổ tạo hình âm đạo, và xu hướng ngày nay trên thế giới là dùng phương pháp ngoại khoa để điều trị hội chứng R-K-H mà mảnh ghép là đồng ghép hoặc tự ghép. Mỗi phương pháp đều có mặt ưu và nhược điểm của nó và thậm chí còn gây ra những biến chứng ngay trong hoặc sau mổ và có thể dẫn đến tử vong. Bệnh nhân đã phải chết để đổilấy một âm đạo tạo hình với giá quá đắt.

Phần lớn những phương pháp mổ tạo hình âm đạo sau một thời gian đã bị mấtvai trò chức năng của nó do sự teo hẹp dần lại, hoặc những khó chịu trong sinh hoạt hàng ngày mà bệnh nhân không thể chịu đựng nỗi, đã có nhiềuphgương pháp được áp dụng rất rộng rãi một thời thì nay đã không sửdụng nữa.

Cho đến nay phương pháp mổ tạo hình âm đạo đang là vấn đề tranh cãi và thảo luận sôi nỗi trong lĩnh vực mổ tạo hình phụ khoa trên thế giới.

Các tác giả trên thế giới đều công nhận là phải chọn một phương pháp tạo hình âm đạo nào mà không gây nguy hiểm cho bệnh nhân, không lấy một tổ chức hay một bộ phận nào trên cơ thể bệnh nhân mà kết quả lại tốt và âm đạo tạo hình lại mang tính chất bình thường về mặt tổ chức và tế bào học.

Một số phương pháp đã được các tác giả áp dụng:

Phương pháp Kapeliouchnique: năm 1965 có tác giả đã dùng polymeres synthétique (chất trùng hợp tổng hợp). Tác giả sử dụng hình khuôn bằng lưới polymeres synthétique đặt trong âm đạo tạo hình nhưng đã gây biến chứng nhiễm trùng hậu phẫu lâu dài nên phương pháp này đã bị phê phán và lãng quên. Thời gian phẫu thuật là 30 phút, nhưng thời gian nằm viện do nhiễm trùng là 75 ngày mà kết quả cũng dễ xơ cứng, teo hẹp âm đạo tạo hình.

Âm đạo tạo hình bằng môi nhỏ: Grâce năm 1908 đã sử dụng những môi nhỏ có kích thước đủ dài để tạo hình âm đạo. Phương pháp này cần có một môi nhỏ khá phát triển và di động, có độ giãn tốt để đủ lợp lên thành âm đạo tạo hình, do vậy đã hạn chế chỉ định của phương pháp.

Âm đạo tạo hình bằng những vạt da: Vạt da có cuống do Grade sử dụng từ năm 1932, những mãnh da có cuống và hình ống (Franck và Geist, 1927),hoặc sử dụng vạt da mông - tầng sinh môn (Hepner, 1872; Sicard, 1943) đã bị bác bỏ, vì lớp da trong âm đạo tạo hình có hình ảnh rất xấu, sẹo trăng trắng và âm đạo tạo hình thường khô và mọc lông trong thành âm đạo.

Sử dụng máy ghép bằng vạt da tự do: Từ năm 1930, MeIndoe đùi. Nhưng kỹ thuật của MeIndoe không phải là một phương pháp hoàn mĩ. Sau khi thành sẹo, âm đạo tạo hình được phủ một tổ chức trắng xám mà không phải là một niêm mạc âm đạo mà là một tổ chức da, dĩ nhiên là khô và cũng có xu hướng teo hẹp lại nếu không được sử dụng liên tục.

Cũng cần lưu ý là vùng kích thích tình dục là mặt trong sau của đùi và mặt trước của thành bụng. Đôi khi có thể là những sẹo xấu, sùi, gây kích thích đau đớn.

Âm đạo tạo hình bằng một quai ruột sigma: Albrecht và cộng sự (1902), phương pháp này cần có kỹ thuật khá phức tạp và có thể bị bục nơi chỉ nối gây nên viêm phúc mạc tòan thể ới tỉ lệ tử vong từ 1,50 đến 2% cũng như gây thiếu máu mảnh ghép. Phẫu thuật đường ruột lại đòi hỏi một chế độ ăn khắc nghiệt trước và sau mổ.

Bảng so sánh một số phương pháp mổ tạo hình âm đạo.

 

 

Mổ tạo hình âm đạo bằng đại tràng sigma

Mổ tạo hình âm đạo môi bé

Mổ tạo hình âm đạo bằng vạt da tự do

Mổ tạo hình âm đạo bằng phương pháp Kapeliouchnique polymeres synth etique

(synthefiques)

Mổ tạo hình âm đạo bằng màng ối và một cái khuôn tự tạo (Mac’s methode)

- Biến chứng nặng: tử vong

2%

0

0

0

0

- Biến chứng khác: hoại tử ruột, bục miệng nối, tắc dính ruột tiết dịch nhiều rối loạn tiêu hóa.

 

 

2%

 

 

0

 

 

0

 

 

0

 

 

0

- Mổ cả đường trên và đường dưới

Cả đường trên và đường dưới

Đường dưới

Đường dưới

Đường dưới

Đường dưới

- Dụng cụ đặc biệt

Dụng cụ đại phẫu

 

0

Dụng cụ để lấy vạt da

Đường dưới và mảnh ghép polytheres synthetiques

 

Sử dụng màng ối

- Thời gian mổ

3-4 giờ

10 phút

60 phút

30 phút

20 phút

- Thời gian nằm viện

30 ngày

20 ngày

30 ngày

75 ngày

12 ngày

- Lấy tổ chức hoặc bộ phận của bệnh nhân

Đại tràng sigma

 

Môi bé

Da, 50% có sẹo lồi

 

0

 

0

- Để lại sẹo

Sẹo thành bụng

Mất môi bé

Sẹo xấu

0

0

- Thời gian sử dụng âm đạo tạo hình sau mổ

 

2 tháng

 

2 tháng

 

3-6 tháng

2 tháng và âm đạo thường teo và xơ cứng

 

3 tháng

- Thất bại

13% (Alexandrop)

Hẹp và nông

79-90%

70%

Âm đạo tạo hình như bình thường về đại thể và vi thể

- pH âm đạo

Kiềm từ 7-8

Kiềm nhẹ

Kiềm

Kiềm nhẹ

Như âm đạo bình thường theo chu kì kinh

- Tổ chức và tế bào âm đạo

Tổ chức của ruột

Môi bé

Da và khô

Khô, nhiễm trùng

Như âm đạo bình thường

- Độ tiết dịch

Dịch ruột nhiều, nhiễm trùng, loét âm hộ, bẹn, niêm mạc ruột.

Tổ chức môi bé

Khô và mọc lông

Khô và xơ cứng

Hồng nhạt

- Chống chỉ định

Mạc treo đại tràng ngắn

Môi bé nhỏ

Da nhiều lông, có sẹo

Dị ứng mãnh ghép

0

 

Có tới 13% các biến chứng sau mổ đã gây hạn chế cho kỹ thuật mổ này. Sa mãnh ghép cũng hay gặp và sự nhiễm trùng cũng như sự tiết dịch nhiều và có một mùi khó chịu, nên đã bỏ phương pháp này từ lâu.

Tạo hình âm đạo bằng sử dụng màng ối: Do xuất phát của những biến chứng khác nhau của các phương pháp mổ tạo hình âm đạo trên đây đã gây nên hạn chế thủ thuật. Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng thử một số phương pháp khác nhau, chúng tôi thấy phương pháp mổ tạo hình âm đạo có sử dụng mảnh đồng ghép bằng màng ối là phương pháp đơn giản và có hiệu quả cao. Nó có một số ưu điểm mà các phương pháp khác không có được: phương pháp này có thể chỉ định cho tất cả những trường hợp mà những phương pháp trên không có chỉ định: không đe dọa đến tính mạng bệnh nhân; thủ thuật nhanh, đơn giản, dễ áp dụng; kết quả cao về cả mặt chức năng, về mặt tổ chức học và tế bào học. Âm đạo tạo hình mang tính chất bình thường và chịu ảnh hưởng sự thay đổi nội tiết của buồng trứng, thành âm đạo tạo hình mềm mại và có độ chun giãn tốt, có đủ độ ẩm để có thể giao hợp được bình thường.

Vùng đỉnh âm đạo tạo hình rộng hơn nên đã làm tăng chiều dài cũng như độ rộng của âm đạo tạo hình và tránh được sự teo hẹp của âm đạo tạo hình.

Cần phải nhấn mạnh vài trò của chiếc khuôn, một dụng cụ khá đơn giản và hữu hiệu. Do đó có độ đàn hồi cao và sự căng căng của nó đã gây nên một áp lực hằng định lên trên thành âm đạo tạo hình và làm dán mật thân thiết màng ối lên thành âm đạo tạo hình.

Màng ối dùng để ghép chỉ là tạm thời, sau khoảng ngày thứ 10 tổ chức của màng ối đã mất hết và thành âm đạo tạo hình là những tổ chức tế bào mâm và dần dần được các tổ chức tế bào của vùng niêm mạc tiền đình bò dần lên để lợp lên toàn bộ thành âm đạo tạo hình. Sự phát triển của những tế bào nàylên phía trên theo hình lưới hoặc thành đám. Màng ối được ghép với mục đích để chống lại sự tiết thanh dịch quá nhiều của hốc âm đạo tạo hình thời kì hậu phẫu, mà đã có sự nhiễm trùng hốc âm đạo ngay sau phẫu thuật thường gây xơ cứng và chít hẹp sớm hốc âm đạo tạo hình.

Cần sử dụng màng ối tươi và vô trùng, nó có độ chun giãn tốt và là nguyên liệu dễ kiếm để có thể phủ được toàn bộ hốc âm đạo tạo hình.

Khâu kín tạm thời âm hộ để cố định thật tốt khuôn và mảnh ghép không bị bật ra trong thời gian hậu phẫu và đã có nhiều phương pháp khác khó thực hiện được, vì nếu khuôn và mãnh ghép bị bật ra thì thời gian hậu phẫu thường gây thất bại và gây nhiễm trùng, thời gian kéo dài hốc âm đạo tạo hình và sự chít hẹp âm đạo cũng rất nhanh chóng ngay sau thời gian hậu phẫu.

Khâu kín tạm thời âm hộ tuy đơn giản nhưnglà yếu tố quan trọng và cần thiết trong thời gian hậu phẫu để khuôn và mãnh ghép đượcbất động torng thời kì hậu phẫu.

Màng ối là một tổ chức của bào thai, nên độ kháng nguyên thấp, thời gian loại thải sau ghép cũng sơm (có lẽ bằng phương pháp đại thực bào) nên đã không gây nên hiện tượng miễn dịch trên bệnh nhân, bệnh nhân đã được thử máu theo dõi ngay sau mổ và sau hơn 4 năm phẫm thuật tạo hình âm đạo.

Do chất liệu nhẹ và khuôn cũng dễ tìm kiếm, nên có thể hướng dẫn cho bệnh nhân tự làm và tự đặt vào bất cứ thời điểm nào ngày cũng như đêm; bệnh nhân có thể đặt từ 10 đến 14 giờ liên tục trong ngày mà không cảm thấy nặng nề vướng víu gì, vẫn có thể đi lại, chạy nhảy và lao động nặng được bình thường. Chỉ cần đeo một nịt bằng cao su đã giữ cho khuôn khỏi tụt ra ngoài.

Tóm lại là khi nào bệnh nhân cảm thấy âm đạo không đủ sâu và rộng để thõa mãn tình dục thì có thể tự đặt khuôn vào âm đạo tạo hình trong vài ngày, mỗi ngày đặt từ 8 đến 10 tiếng là đạt yêu cầu mong muốn cho cả vợ lẫn chồng. Trước lúc đặt khuôn cần bôi lên khuôn mỡ có kháng sinh hoặc dầu vasellin cho dễ dàng việc đặt khuôn.

Cần chú ý việc đặt sonde foley đúng với cỡ niệu đạo sao cho nước tiểu không chảy ra vùng âm hộ gây ra nhiễm trùng vết mổ thời kì hậu phẫu.

Phương pháp mổ tạo hình âm đạo mà chúng tôi áp dụng là một phương pháp đơn giản, kết quả gần cũng như lâu dài đều tốt, không gây một tai biến và biến chứng não sau mổ cũng như thời gian lâu dài, âm đạo tạo hình đạt được cả về mặt chức năng và về mặt sinh lý, tổ chức học.

Phẫu thuật tạo hình âm dạo bằng đường đơ thuần với việc sử dụng một caq1i khuôn đơn giãn nhưng lại hữu hiệu hơn là sử dụng những khuôn phức tạp và khó kiếm khác, mảnh ghép đồng loại là màng ối, một nguyên liệu dễ tìm kiếm. Việc thực hành đơn giản và dễ dàng hơn so với các phương pháp mà các tácgiả đã áp dụng ở phần trên. Không đòi hỏi một tổ chức hoặc một bộ phận nào của bệnh nhân mà thường bệnh nhân khó chấp nhận. Dụng cụ để phẫu thuật cũng khá đơngiản.

Phương pháp đã không gây ra một tai biến hoặc một biến chứng nào.

Thời gian nằm viện ngắn so với các phương pháp khác (12 ngày)

Thời gian phẫu thuật trung bình là 30 phút.

Điều kiện để thủ thuật được thành công: Tránh được sự bật khuôn trong thời gian hậu phẫu là do khâu kín tạm thời âm hộtrong thời gian hậu phẫu 7 ngày. Tránh được bong mảnh ghép và nhiễm trùng hốc âm đạo tạo hình vì sử dụng khuôn thích hợp. Tránh được sự teo hẹp âm đạo tạo hình sau khi mổ và thời gian lâu dài sau này là nhờ có cái khuôn, bệnh nhân có thể tự đặt dễ dàng vào buổi tối hoặc ngay cả ban ngày mà ẫn có thể đi đứng và làm việc được bình thường, không phiền hà gì cho bệnh nhân.

Ngày nay, trên thế giới có thể giải quyết cho người phụ nữ hội chứng R-K-H có con bằng cách soi ổ bụng lấy trứng thụ tinh nhân tạo sau đó cho dịch vụ chửa, đẻ thuê.

Bác sĩ Nguyễn Đình Mạc
Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình