Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Chăm sóc sức khoẻ
Thế nào là siêu âm trong sản phụ khoa?

Siêu âm đã được áp dụng để điều trị trong y học từ lâu. Năm 1937, Dognon, Biancani con điều trị siêm âm như lí liệu pháp. Năm 1939, Pohlmann, Richter, Parrow lần đầu tiên áp dụng điều trị siêu âm cho người, trong các bệnh đau, viêm dây thần kinh, thấp khớp, v.v... Có kết quả. Năm 1942, Shoklz dùng siêu âm điều trị siêu âm cho những người bị cứng khớp do xơ hóa có kết quả tốt, đặc biệt cho những người đau dây thần kinh chủ yếu là thần kinh tọa.

Năm 1951, Dognon mới nghĩ tới dùng siêu âm vào việc chẩn đoán bên trong lâm sàng. Ông dựa vào kết quả của nó trong việc thăm dó chướng ngại vật trên lĩnh vực hàng hải, nhưng lúc đó khoa học chưa phát triển để có thể khắc phục những khó khăn chế tạo một nguồn và nguồn thu siêu âm với tốc độ chính xác, mãi đến năm 1958 mới giải quyết được và Donald là người đầu tiên đã áp dụng để chẩn đoán trong lĩnh vực sản - phụ khoa.

Từ đó đến nay siêu âm được áp dụng rộng rãi trong y học, riêng trong lĩnh vực sản - phụ khoa siêu âm là phương tiện cần thiết không thể thiếu được ở những nước phát triển, siêu âm đã và đang được cải tiến không ngừng để giúp cho độ chẩn đoán chính xác ngày càng cao.

Năm 1971, Lê Điềm áp dụng lần đầu tiên siêu âm trong ngành phụ sản ở Việt nam tại Khoa sản bệnh viện Hữu nghị Việt - Tiệp Hải Phòng.

Nguyên lý siêu âm

Siêu âm chỉ khác âm thanh thường là tần số âm của nó quá giới hạn tai nghe, nghĩa là quá 20.000 chu kì giây.

Trong y học để chẩn đoán người ta dùng tần số từ 1-4MHz và cường độ độ 0,002-0,02 W/cm2.

Các định luật lí học của siêu âm cũng giống như định luật của ánh sáng.

Khi siêu âm gặp một chướng ngại vật nó phản xạ lại và cho một âm vang. Nếu qua nhiều môi trường khác nhau, nghĩa là qua nhiều chướng ngại vật khác nhau, siêu âm sẽ phản xạ lại nhiều âm vang khác nhau mà ta có thể thu lại được trên những chặng đường nó đi qua. Đặc tính quan trọng này được áp dụng để chẩn đoán.

Siêu âm cũng như âm thanh không truyền qua môi trường chân không. Siêu âm chỉ phản xạ lại qua 2 môi trường khác nhau, hay nói cách khác khi qua môi trường có trở kháng âm khác nhau.

Trong cơ thể người có rất nhiều bộ phận cấu trúc khác nhau, ngay cùng một bộ phận cũng thế. Cho nên khi áp dụng siêu âm để chẩn đoán, người thầy thuốc cần phân biệt những bộ phận có tính chất âm học đồng nhất.

Nguồn gốc sản xuất ra sóng âm

Bất cứ một dạng năng lượng nào cũng có thể biến thành âm thanh, gọi là năng âm. Âm thanh nghe được bằng tai thường do năng lượng cơ học sinh ra, âm thanh đó không đủ khả năng tạo ra những âm có tầng số cao như siêu âm dùng trong y học.

Muốn có tần số siêu âm người ta dùng tinh thể thạch anh (Quartz) hay bằng Thiotanate barium trong đó đặt một lam mỏng giữa 2 cốt bằng kim loại duới điện thế khác nhau tùy theo chiều của dòng điện vào.

Nhờ có dòng điện xoay chiều chạy qua làm rung động đầu tinh thể, tạo ra một tần số của dòng điện xoay chiều. Ngày nay người ta cải tiến bằng cách đặt một lam mỏng vào giữa hai tấm thép, nó không làm giảm bớt chiều dày của tinh thể mà còn làm tăng thêm sự cộng hưởng của tinh thể, đồng thời giảm được cả điện thế, tiết kiện được giá thành sản xuất.

Những ảnh hưởng sinh vật của siêu âm

Tùy thuộc vào cường độ và tầng số

Nếu dùng siêu âm để điều trị thì dùng cường độ 1=0,5–4W/cm2 lúc đó năng âm sẽ biến thành nhiệt năng, tác dụng coi như dòng sóng ngắn và nhiệt điện. Vì vậy, nếu dùng cường độ này để chẩn đoán thì có những ảnh hưởng xấu tới các tổ chức trong cơ thể, nhất là khi thay đổi cả tần số. Ngày nay người ta lợi dụng tính chất này, hướng siêu âm tới một vùng nhỏ trong cơ thể để phẩu thuật các cơ quan ở sâu và phức tạp trong sọ não.

Nếu dùng cường độ từ 0,002-0,02W/cm2 và tầng số từ 1-4MHz để chẩn đoán thì trải qua nhiều thực nghiệm không thấy có ảnh hưởng xấu nào đến các bộ phận trong cơ thể người, kể cả đối với bào thai và thai nhi trong bụng mẹ. Tuy vậy một số tác giả khuyên là không nên dùng siêu âm quá lâu trong thời kì đầu của thai nghén và cũng không nên dùng liên tục.

Siêu âm áp dụng trong sản phụ khoa

Siêu âm đóng một vai trò quan trọng trong y học, nó đã giúp cho thầy thuốc lâm sàng chẩn đoán chính xác một số lớn bệnh, đặc biệt trong lĩnh vực sản - phụ khoa. Siêu âm còn tạo điều kiện cho các cận lâm sàng khác có hướng để góp phần trong quá trình chẩn đoán và xử trí.

Chỉ định trong sản - khoa
Cho thai thường

Chẩn đoán thai sớm: Siêu âm có thể xác định có thai từ tuần lễ thứ tư, nó có thể hiện những âm vang có hình túi thai trong buồng tử cung, ở tuần lễ thứ tám có thể nhìn thấy ống tim đập.

Ước tính tuổi thai và đánh giá sự phát triển của thai: Trường hợp không nhớ ngày có thai: Dùng siêu âm để đo đường kính lưỡng đinh (D.K.L.D), vòng đầu (V.D), chiều dài xương đùi (CDXĐ) có thể ước tính được tuổi thai, nếu phối hợp do thêm vòng bụng (VB) thỉ còn có thể ước tính được cân nặng và sự phát triển của thai.

Trường hợp nhớ rõ ngày có thai: Dùng siêu âm để xem sự phát triển của thai có phù hợp với tuổi thai không bằng cách do vòng đầu, vòng bụng, chiều dài xương dùi có thể đánh giá sự phát triển chậm của thai trong buồng tử cung.

Phát hiện siêu âm qua phụ tạng

Nếu tỉ lệ:

= 1,12 tương đương với thai 24 tuần

VB

= 1,05 tương đương với thai 32 tuần

VB

= 0,98 tương đương với thai 40 tuần

VB

Tỉ lệ: CDXD = 0,20 – 0,22 thường không thay đổi trong quá trình phát triển  

          VB

của thai bình thường, và từ những tỉ lệ trên dùng để đánh giá thai chậm phát triển.

Thường dùng đường kính lưỡng dính để sơ bộ ước tính tuổi thai vì dễ đo và sai số ít, kết quả cho thấy:

- Tuần lễ thứ 13-17 mỗi tuần tăng 4mm.

- Tuần lễ thứ 18-31 tốc độ tăng chậm đi.

- Tuần lễ thứ 32-36 mỗi tuần tăng không quá 2mm.

- Từ tuần lễ thứ 37-40 mỗi tuần tăng không quá 1mm.

Kotard, Sujuki cho rằng đường kính lưỡng đỉnh của thai nhi có liên quan chặt chẽ với thai, nhưng với cân nặng thì sự liên quan đó không rõ rệt, mà phải dùng các đường kính trên để theo dõi sự phát triển của thai.

Đo đường kính lưỡng đỉnh

Chẩn đoán ngôi thế của thai: Thông thường chỉ đến ngày gần đẻ mới chẩn đoán vị trí của thai nằm trong tử cung. Việc thăm khám qua lâm sàng thường không khó khăn nhưng cũng có những trường hợp khó như người có thành bụng dày, hoặc có cơn co tử cung cường tính. Siêu âm sẽ giúp chẩn đoán dễ dàng các thai ngôi đầu, ngôi ngang, ngôi ngược.

Đo đường kính lưỡng đỉnh ằng Scan

Chẩn đoán song thai, đa thai: Để chẩn đoán song thai hay đa thai nhiều khi rất khó khăn nhất là những người có thành bụng dày hay thai kèm theo đa ối. Khi chưa có siêu âm người ta phải dùng điện quang để chẩn đoán, mặc dù biết là có ảnh hưởng không tốt đến thai. Việc đánh giá trong lượng và sự phát triển của thai ở đa thai rất khó vì siêu âm chưa có một bảng chuẩn nào để so sánh, người ta cho rằng bình thường trọng lượng của thai sinh đôi giảm từ 10-15% so với trọng lượng thai thường. Nếu trọng lượng của thai sinh đôi giảm trên 25% hoặc đường kính lưỡng đỉnh giảm trên 4mm chứng tỏ sự phát triển của song thai là không bình thường.

Ngôi đầu

Cho thai bất thường:

Thai dị dạng: Dùng siêu âm để theo dõi một cách có hệ thống những sản phụ mà tiền sử có nguy cơ sẽ giúp ta phát hiện sớm những thai dị dạng đặc biệt là hệ thần kinh trung ương có thể phát hiện sớm từ tuần lễ thứ 16 trở đi, cũng như đánh giá cấu trúc của tim thai từ tuần lể thứ 22.

- Ngôi ngang

- Ngôi ngược

Trường hợp máu mẹ AFP không bình thường (AFP = Alpha feto proteine).

Siêu âm giúp cho việc đánh giá về giải phẩu và khả năng tiềm tàng sức sống của thai nhi.

Song thai

Nếu máu mẹ AFP (MM-AFP) tăng rõ rệt: Thường phối hợp với sự thương tổn của hệ thống thần kinh (ống thần kinh) và thương tổn của thành bụng, đa thai, thai chết trong đa thai và một số dị dạng khác như vô sọ, v.v.... siêu âm cần chú ý xem xét kỹ hộp sọ và ống thần kinh, nếu siêu âm không phát hiện được gì thì cũng chưa vội kết luận MM-AFP tăng là không có ý nghĩa vì những thương tổn ở ống thần kinh dù có siêu âm kỹ cũng không phát hiện được, tỷ lệ này chiếm từ 5-10%.

Nếu MM-AFP không rõ ràng: Siêu ấm giúp ta thấy nước ối để đo trực tiếp AFP và do acetylcholinesterase để xác định karyotype của thai. Aacetylcholinesterase tập trung cao trong hệ thống thần kinh trung ương và xuất hiện sớm trong nước ối. Nếu xuất hiện sau tuần lễ thứ 14 thì coi là có thương tổn ở ống thần kinh (mở). Nước ối có acetylcholinesterase sẽ thâm nhập vào máu thai làm AFP tăng nhưng không ảnh hưởng tới lượng acetylcholinesterase trong nước ối.

Nếu MM-AFP giảm: Siêu âm không phát hiện được mà dùng siêu âm để chọc lấy nước ối, từ đó xác định karyotype của thai, trường hợp này sẽ có nguy cơ tới nhiễm sắc thể như ba nhiễm sắc thể 21.18.13 (Trisomie 21.18.13).

Trường hợp lượng nước ối không bình thường: Có thể do chức năng không bình thường của đường tiết niệu, đường tiêu hóa ở thần kinh trung ương.

Đa ối: Siêu âm chưa có một chuẩn mực tương đối chính xác nào về đa ối, người ta tạm đưa rà chuẩn mực sau: chia buồng tử cung thành 4 ô, ô nào chứa bề cao nhiều nước ối nhất mà trên 7cm thì coi là đa ối; trung bình cộng của chiều cao nước ối trong 4 ô của buồng tử cung bằng hay lớn hơn 20cm cũng coi là đa ối.

Đa ối thường phối hợp với người có bệnh đái tháo đường, người đồng miễn dịch, hoặc thai bị thương tổn ống thần kinh,teo hành tá tràng và các bộ phận khác.

Đa ối vô sọ

Khi đã xác định được đa ối thì nên tiếp tục đánh giá về nhiễm sắc thể vì có nhiều khả năng có các dị dạng khác.

Thiếu ối:Siêu âm dùng hai phương pháp để đánh giá: nếu chiều cao của ô lớn nhất chứa nước ối giảm 1x1cm và những túi ối còn lại giảm từ 1x1cm – 2x2cm thì coi là thiểu ối, nếu trung bình cộng của 4 chiều cao chứa nước ối của 4 ổ bằng hay dưới 5cm cũng coi là thiểu ối.

Trường hợp có thương tổn về hệ thống tuần hoàn: Dùng siêu âm có màu để xác định tốc độ dòng máu chảy của các mạch máu như động mạch rốn, động mạch chủ, động mạch cảnh, động mạch não, v.v.... giúp ta xác định các thương tổn tuần hoàn của thai nhi để đánh giá các khuyết tật và bệnh của thai nhi. Phát hiện trường hợp chỉ có một động mạch rốn, tỉ lệ chỉ có một động mạch rốn chiếm khoảng 1% tổng số người có thai, và nếu chỉ có một động mạch rốn thì tỉ lệ dị dạng chiếm 20-50%, và cũng nhờ biết được tốc độ của dòng máu mà có thể phát hiện được các thương tổn ở tim, ở não. v.v....

Vô sọ và não úng thủy: Siêu âm không những chỉ hướng cho ta tìm nguyên nhân (thương tổn thần kinh) mà về lâm sàng còn giúp ta chẩn đoán nhanh. Siêu âm vô sọ thì không thấy xuất hiện vòng đầu mà chỉ thấy một phần của xương sọ và thêm vào đó có thế có đa ối.

Siêu âm não úng thủy thấy não bị nhỏ lại, các đường khớp của xương sọ bị giãn rộng, hình ảnh vòng đầu của xương sọ không liên tục, có chỗ cách quảng.

Đau bụng và chảy máu trong sản khoa

Chẩn đoán dọa sẩy và sẩy thai: Siêu âm theo dõi sự phát triển của thai từ những tháng đầu, có thể phát hiện được dọa sẩy thai.

Edgar nhận thấy nếu túi thai (sac embryonnaire) ở vị trí thấp thì đa số thai bị sẩy, nếu không bị sẩy thì cần theo dõi rau tiền đạo từ tháng thứ 5 trở đi bằng siêu âm.

Hellman nhận thấy nếu túi thai trong những tuần đầu kém phát triển, nhỏ quá không có hình tròn liên tục thì phần lớn sẽ bị sẩy thai.

Miskin và một số tác giả khác có những nhận xét tương tự và còn dùng siêu âm để xác định vị trí bánh rau lúc thai còn nhỏ, nhằm bảo đảm an toàn khi cần lấy nước ối để nghiên cứu nhiễm sắc thể của thai, phát hiện sớm bệnh di truyền.

Nếu thai đã bị sẩy thì siêu âm không còn thấy phần thai trong buồng tử cung nữa.

Chẩn đoán thai chết lưu: Siêu âm xác định thai chết lưu một cách chính xác, thể hiện trên màn hình không thấy tim thai đập và không thấy thai cử động, ngoài ra còn thấy các xương sọ chồng lên nhau, giống như dấu hiệu Spalding trong X quang.

Chẩn đoán của trứng: Chửa trứng là do sự thoái hóa của các gai rau thành những túi nước kích thước to hay nhỏ tùy theo sự thoái hóa của từng gai rau, mỗi túi có một bọc riêng. Nhờ có đặc tính này mà khi sóng âm qua sẽ phản xạ lại rất nhiều hình túi giống nhưnhững bọt biển hay một mảng tuyết rơi choán toàn bộ tử cung nếu là chửa trứng toàn phần, nếu là chửa trứng không hoàn toàn thì ngoài hình ảnh trên còn có hình ảnh của thai hoặc rau thai.

Chửa trứng

Chẩn đoán chửa ngoài tử cung: Siêu âm chẩn đoán chửa ngoàitử cung đôi khi gặp nhiều khó khăn cần phải phối hợp với β-HCG nhất là những trường hợp chửa ngoài tử cung chưa bị vỡ. Nếu β-HCG>6500 nghĩ tới chửa trong tử cung, nhưng siêu âm không thấy hình ảnh thai trong buồng tử cung thì nghĩ nhiều tới chửa ngoài tửcung, mới đây dùng siêu âm đặt đầu dò trong âm đạo cho thấy nếu β-HCG>1800 mà siêu âm trong buồng trứng tửcung không thấy gì trong buồng tử cung, thì rất nhiều khả ăng là chửa ngoài tử cung, nếu siêu âm thấy túi thai ở ngoài tử cung (vòi trứng) thì chắc chắn là chửa ngoài tử cung.

Chửa ngoài tử cung thể huyết tụ thành nang, siêu âm cũng chỉ cho biết có một khối u mà âm vang giống như khối u chứa máu, không có bờ rõ rệt. Dù sao trong mọi trường hợp siêu âm cũng giúp cho người thầy thuốc thêm phần chẩn đoán xác định.

Chẩn đoán rau tiền đạo: Siêu âm chỉ xác định rau tiền đạo tương đối chính xác khi thai từ 20 tuần lễ trở đi, trước đó hình ảnh siêu âm bánh rau thường nhìn thấy nằm ở phía dưới, vì vậy tháng thứ 5 trở đi, nhất là những tháng cuối mà sản phụ thấy ra máu ở âm đạo thì siêu âm là phương pháp lí tưởng để phát hiện rau tiền đạo, giúp cho người thầy thuốc chủ động trong khi xử trí.

Chửa ngoài tử cung

Các loại vị trí rau bám: Rau bám phía trước

Chẩn đoán rau bong non: Siêu âm thường dùng để chẩn đoán rau bong non thể nhẹ và thể trung bình, còn thể nặng là cấp cứu mà dấu hiệu lâm sàng cũng quá đầy đủ nên không cần phải siêu âm, hình ảnh trên siêu âm sẽ thễ hiện rõ cục máu sau rau.

Rau bám bên

Những năm gần đây máy siêu âm được cải tiến liên tục như: Siêu âm truyền hình màu, dùng dầu dò qua âm đạo, hiệu ứng Doppler, v.v... Vì vậy siêu âm được xem là một phần của việc theo dõi, chăm sóc trong sản - phụ khoa. Ngoài những tác dụng phát hiện thai thường và bất thường, xác định ngôi thai và số lượng thai, siêu âm còn giúp cho việc chẩn đoán chi tiết những dị tật của thai mà ngoài siêu âm ra chưa có một phương tiện nào phát hiện được.

Ở tuổi thai từ 22 tuần trở lên, siêu âm giúp ta đo dòng chảy của động mạch rốn, của tim, của não để thăm dò những bất thường như: ở tim mạch: hẹp động mạch chủ, hẹp động mạch phổi, thông liên thất, tứ chứng Fallot, v.v...; Ở não bộ: tắc mạch não, thiểu năng mạch não, não to, não nhỏ, v.v... xác định mạch máu của cuống rốn để thay máu cho thai trong những trường hợp bất đồng nhóm máu giữa mẹ và thai đề phòng sớm biên chứng vàng da nhân não do tan máu.

Về các tạng trong ổ bụng, siêu âm còn phát hiện sớm những dị dạng: Ở đường tiêu hóa: teo thực quản, teo hành tá tràng, tắc ruột, thoát vị dạ dày, thoát vị rốn, v.v.... Ở tiết niệu, nang tuyến thượng thận, thận đa nang, thận lạc chỗ, ứ nước bể thận, thận bị teo, v.v...; Ở xương: xương đùi ngắn, xương cánh tay ngắn, mất chân tay, thừa ngón chân, ngón tay, v.v....

Rau bám phía sau

Siêu âm định hường làm sinh thiết gai rau để xét nghiệm giải phẫu vi thể và qua đó đánh giá sự phát triển và định hướng của thai.

Tóm lại, siêu âm ngày càng giữ một ị trí quan trọng trong sản khoa, giúp ta theo dõi thai bình thường và phát hiện sớm những thai bất thường để có hường giải quyết đúng đắn.

Chỉ định trong phụ khoa

Cho những thầy thuốc phụ khoa có kinh nghiệm không phải đã dễ dàng phát hiện các khối u trong ổ bụng, đặc biệt trongtiểu khung bằng thăm khám lâm sàng nếu khối u quá nhỏ hoặc quá to, ở những người có thành bụng dày, những người béo phì, những người có phản ứng thành bụng.

Siêu âm là phương tiện tốt để giúp ta chẩn đoán những khối u ở tiểu khung và cho ta biết rõ vị trí, kích thước một cách chính xác, nó còn cho ta biết được phần nào tính chất của khối u.

Về kích thước ta biết được tốc độ truyền âm trong cơ thể là 1.500m/giây, qua đầu dò cho biết thời gian của âm phản xạ đi qua từng bề mặt khác nhau của các tổ chức. Biết thời gian và tốc độ truyền âm máy tính điện tử sẵn có sẽ cho ta biết kích thước thể hiện trên màn hình.

Về vị trí siêu âm với tính chất phản xạ khác nhau khi đi qua các tổ chức khác nhau sẽ phản ánh rõ rệt vị trí từng bộ phận, từng khối u.

Về tính chất khối u vẫn căn cứ vào tính chất cơ bản của siêu âm là chỉ phản xạ khi gặp 2 môi trường không đồng nhất, sự phản xạ mạnh hay yếu là tùy theo tính chất của từng môi trường, vd. ở môi trường nước, siêu âm xuyên qua dễ hơn môi trường đặc, khi dùng tần số càng thấp thì độ xuyên càng mạnh, vì vậy giúp ta phân biệt được rõ rệt: u nước, u đặc, u một thùy hay u niều thùy, v.v...

Người ta còn siêu âm để kiểm tra các dị vật trong buồng tử cung như dụng cụ tử cung, các polip trong buồng tử cung vì bình thường buồng tử cung không có khoang trống nên không có phản xạ siêu âm, nếu có vật lạ thì siêu âm sẽ phản xạ lại.

Trong phụ khoa thường dùng siêu âm để phát hiện u xơ cơ tử cung, các khối u buồng trứng, khối u ở phần phụ và các khối u ở vú.

Chẩn đoán u xơ tử cung: Về lâm sàng nếu không có thai thì việc chẩn đoán một u xơ tử cung to không khó khăn gì, nhưng ở người có u xơ lại nghi có thai thì đôi khi rất khó chẩn đóan. Siêu âm ở trong trường hợp này không những cho biết tử cung có thai mà còn có thể cho biết tử cung có nhân xơ ở vị trí nào.

U xơ tử cung

Trường hợp u xơ ở dưới phúc mạc có cuống thì siêu âm chỉ cho biết kích thước, vị trí, tính chất khối u nhưng không xác định được đó là u xơ cơ tử cung.

Chẩn đoán khối u buồng trứng: Siêu âm có thể cho biết các loại u như: u nang nước, hay u nang đặc và u nang pha, có một thùy hay nhiều thùy. Nhưng siêu âm rất khó phân biệt u xơ buồng trứng với u xơ tử cung nếu u này dính vào tử cung hay nằm sát vào tử cung, đặc biệt nằm ở mặt sau tử cung, riêng với u nang nước thì mặc dù có dính với tử cung hay với thành bụng hoặc với cơ quan lân cận thì siêu âm cũng cho phép chẩn đoán dễ dàng vì nước lkà môi trường đồng nhất có trở kháng âm khác hẵn các môi trường xung quanh và nếu có những chất khác nằm trong nước thì sự phản xạ của siêu âm cũng cho ta thấy rõ.

Chẩn đoán các khối u ở vú: Có những khối u nhỏ ở vú nằm ở sâu, việc thăm khám rất khó phát hiện, nhất là những người có vú to. Siêu âm có thể phát hiện được những u xơ và những khối u khác, giúp cho việc xử trí được dễ dàng.

Kết luận

Siêu âm đã, đang và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong y học, không những chỉ dùng để điều trị như lí liệu pháp trước kia mà còn dùng để phẫu thuật các bộ phận tinh vi như ở não, tránh được những tai biến nếu phải phẫu thuật bằng dao kéo. Điều quan trọng hơn nữa là siêu âm đã được áp dụng rộng rãi để chẩn đoán không riêng gì trong ngành phụ sản mà còn được mở rộng ở một số ngành như nội khoa, ngoại khoa, nhi khoa, nhãn khoa, v.v...

U nang buồng trứng

Trong sản phụ khoa không những chỉ giúp cho việc chẩn đoán chính xác mà còn là phương tiện để theo dõi sự phát triển của thai, đánh giá tình trạng thai bất thường, biết được vị trí, kích thước, tính chất của các khối u và sự tiến triển của nó.

Siêu âm có nhiều tác dụng như vậy nhưng nếu không kết hợp chặt chẽ với những kinh nghiệm lâm sàng và phối hợp với cận lâm sàng khác thì tác dụng của nó cũng bị hạn chế.

Ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật phát triển người ta dùng siêu âm có đầu dò âm đạo, siêu âm màu, siêu âm Doppler đã phát hiện được hầu hết những bất thường, dị dạng của thai nhi ở các hệ thống như: các khối u ở não, hệ thống tuần hoàn tim mạch, hệ thống hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu, gan mật, sự phát triển của xương... từ đó người ta đã phẫu thuật những dị tật của thai ngay ở trong bụng mẹ cũng như đã thay máu cho những thai nhi bất đồng nhóm máu giữa mẹ và thai... Vì vậy đã hạ thấp được phần nào tỉ lệ tử vong khó tránh của các trẻ khi mới ra đời.

Về phụ khoa siêu âm còn cho hướng để phát hiện sớm những khối u ác tính của bộ phận sinh dục để có hướng xử trí kịp thời.

Với những người có kinh nghiệm về lâm sàng và đã sử dụng thành thạo siêu âm thì việc chẩn đoán có độ chính xác rất cao.

Ở Mĩ người ta đang đề nghị có đạo luật về sử dụng siêu âm, vì với những người làm siêu âm chưa có kinh nghiệm, chưa đủ trình độ sẽ đọc kết quả sai lệch làm cho người bệnh hoang mang, ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần. Vì vậy mọi người làm siêu âm phải được đào tạo từ thấp đến cao mới được hành nghề

Giáo sư, Tiến sĩ Lê Điềm

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình