Cách này áp dụng cho cùng loại bệnh ở biểu lý. Phàm chứng ở biểu chưa hết, chứng lý lại gấp thì dùng cách này. Trong trường hợp cùng bệnh ở biểu, mà chỉ giải biểu, thì tà ở lý không hết được, mà chỉ chữa ở lý thì tà ở biểu không giải được, thậm chí tắc lại bên trong, nên phải cùng chữa cả biểu cả lý, phân giải cả trong và ngoài, thì mới đồng thời trừ được tà cả biểu và lý.
1. Giải biểu tả thực. Cách này thích hợp khi bên ngoài có tà biểu, bên trong có thực tích. Nếu bệnh nhân có xuất hiện chứng bệnh sợ rét sốt cao, bụng căng đau, khó chịu bên trong, nôn mửa, khó đại tiện, dùng bài thuốc Hậu phác thất vận thang trong “ Kim quỹ yếu lược”. Bài thuốc này chữa trị chứng ngoại cảm ở biểu chưa hết mà bên trong đã có triệu chứng tích thực. Trong bài thuốc dùng quế chi để giải biểu, hậu phác, chỉ thực để tiêu u chống đầy, thêm đại hoàn để thông tiện, phối hợp sinh khương, đại táo, cam thảo để giúp giải biểu tán hàn, điều hoà doanh vệ. Nếu ra mồ hôi mà tà biểu không giải được, nhiệt kết lại bên trong, sẽ xuất hiện rét và rốt, đau tức ở sườn, nôn mửa, ấm ách khó chịu, như có cục cứng ở dưới tim, đau bụng khó đại tiện, dùng bài thuốc Đại sài hồ thang trong “Thương hàn luận”. Bài thuốc này để chữa trị thiếu dương và dương minh hợp bệnh. Nếu tà ở thiếu dương, triệu chứng thường gặp là rét sốt, tức ngực, dùng sài hồ, hoàng cầm để hoà giải thiếu dương; nếu bên trong tích thực thì có triệu chứng như có cục cứng dưới tim, đại tiện khó, dùng đại hoàng, chỉ thực để tả nhiệt kết; dùng bán hạ, sinh khương để chống nôn. Nếu phong nhiệt thịnh, có cả bên trong, thì sẽ xuất hiện sợ lạnh mà sốt, váng đầu hoa mắt, miệng khô đắng, tức ngực, lên cơn ho hen, đại tiện táo bón, tiểu tiện đỏ rát, có thể dùng bài thuốc Phòng phông thông thành tán trong “ Tuyên minh luận”. Bài thuốc này dùng để giải biểu, tiết nhiệt, công phạt cả hai.
2. Giải biểu thanh lý. Cách này thích hợp đối với bên trong nhiệt có cả biểu chứng ở ngoài, như bệnh nhân sốt cao không có mồ hôi, cơ thể co giật, mặt đỏ mắt đỏ, mũi khô miệng khát, khó chịu mất ngủ, khản tiếng, chảy máu cam, có thể dùng bài thuốc Tam hoàng thạch cao thang trong “ Thương hàn lục thư”. Bài thuốc này được dùng khi triệu chứng ở biểu chưa giải, mà bên trong vẫn nóng nhiều. Trong bài thuốc dùng thạch cao, tân cam, đại hàn để giải nhiệt ở cơ, phối hợp với ma hoàng, đậu cổ để phát tán, giải tà ở biểu, hoàng cầm hoàng liên, hoàng bách, chi tử khổ hàn, để thanh nhiệt bên trong, làm hoả tam tiêu được thanh trừ, nên là thuốc được dùng trước tiên để thanh lý giải biểu, giải cả hai ,mặt. khi mới bị ngoại cảm thường gặp hiện tượng biểu chứng chưa giải, mà nhiệt bên trong lại phát triển, thì có thể ứng dụng cách này.
3. Giải biểu ôn lý. Cách này thích hợp với chứng biểu lý đều hàn. Ngoại cảm phong hàn, nội thương lại lạnh, có triệu chứng nóng mà không ra mồ hôi, đau đầu đau mình, cổ lưng co giật, túc ngực chán ăn, buồn nôn đau bụng. Phong hàn thúc biểu, bế tắc trong kẽ cơ, thời người nóng mà không ra mồ hôi, đau đầu đau mình, co rút cổ lưng. Nội thương sinh lạnh, làm tổn thương tỳ vị dương khí, khiến vận hoá thất thường sinh đàm thấp, tức ngực, chán ăn, buồn nôn, đau bụng. Bài thuốc dùng ngũ chỉ tán trong “Hoà tế cục phương”. Bài thuốc này để ra mồ hôi giải biểu, ôn trung tán hàn, kiện tỳ háo thấp, lý khí hoá đờm, vì vậy thích hợp với người biểu lý đều lạnh.
4. Giả biểu khử thấp. Cách này thích hợp với chứng biểu lý đều thấp. Cơ thể bệnh nhân nội thấp nhiều, lại thêm bị thấp tà ngoại cảm, nên có chứng biểu lý đều thấp, triệu chứng thường gặp, nghê lạnh phát sốt, toàn thân ê ẩm, đau lưng. “Thời luận bệnh” đã viết: “Đôi khi hoặc gặp cả gió mưa, người bị cảm thì đau mình, đau lưng, nghê lạnh phát sốt, là do tà ở biểu thái dương nhập vào thiếu âm, tức là như “Nội kinh” gọi là vũ khí thông vào thận, thì nên giải cả biểu và lý” dùng bài thuốc nhị hoạt đồng khử pháp trong “Thời bệnh luận”. Y gia họ Lôi viết “Chứng thấp cảm cả biểu và lý, thì phải dùng cách này. Trong đó khương hoạt, phòng phong để giải toả thấp biểu thái dương, độc hoạt, tế tân để giảm thấp của thiếu âm, thương truật làm khô thấp khí, sinh khương làm mất thuỷ khí, nói chung các thuốc thuộc tân ôn khổ háo, nên dùng thêm cam thảo để làm dịu”. Nếu bị đau bụng tiêu chảy, thì cho thêm cát căn, mộc hương |