Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Các cách chữa khác đối với cảm mạo biểu hàn phế nhiệt.

1. Chữa bằng châm cứu.

Nhóm huyệt thứ nhất: thiếu dương, xích trạch, hợp cốc, liệt khuyết.

Cách làm: đều dùng phép tả, chích máu huyệt thiếu dương. Nhóm huyệt này nặng ở thanh tả phế nhiệt.

Nhóm huyệt thứ hai: kinh môn, đại chuỳ, hợp cốc, ngoại quan. Cách làm: đều dùng phép tả. Nhóm huyệt này áp dụng khi người phiền muộn do nội nhiệt bế tắc, biểu hàn không giải, không ra được mồ hôi.

Nhóm huyệt thứ ba: hậu khê, thân mạch, hợp cốc, phục lưu.

Cách làm: bình bổ bình tả, châm nhẹ để lâu. Dùng cho chứng phong hàn nội hoá nhiệt, nóng nhiều rét ít.

Nhóm huyệt thứ tư: Phong môn, liệt khuyết, ngoại quan, phế du, hợp cốc, khúc trì, đại chuỳ. Dùng cuộn lá ngải cứu, mỗi huyệt 3-5 phút. Có tác dụng tán hàn thanh nhiệt.

2. Chữa bằng nhĩ châm.

Chọn các huyệt khí quản, nội ty, yết hầu, phế hai bên tai. Kích thích mạnh, lưu kim 30 phút.

3. Chữa bằng xoa bóp.

Bài 1, huyệt và vị trí: đại chuỳ, phong phủ, phong trì, thiên trụ, đại trù, phong môn, phế du và hai kinh bàng quang 2 bên hông.

Cách làm: bệnh nhân nằm sấp. Trước tiên dùng lòng bàn tay sát lên kinh bàng quang hai bên hông, cho đến khi nóng lên. Sau đó ấn váo các huyệt phong trì, thiên trụ, phong phủ, đại chuỳ, đại trù, phong môn, phế du, mỗi huyệt khoảng 1 phút. Rồi dùng 3 ngón tay bắt huyệt phong trì hai bên và kinh bàng quang hai bên lưng, từ trên xuống, 4 -5 lượt, làm lông tóc dựng lên để phát tán giải biểu.

Bài 2, lấy các huyệt trung phủ, khúc trì, xích trạch, ngư tế, hợp cốc. Cách làm: bệnh nhân ngồi. Trước tiên từ ngư tế xát 2 bên tay cả trong và ngoài, rồi lấy 3 ngón tay bắt các huyệt xích trạch, khúc trì, hợp cốc, sau đó day huyệt trung phủ, khúc trì, xích trạch, ngư tế, hợp cốc, cuối cùng xoa 2 tay. Để thanh lọc phế nhiệt.

4. Chữa bằng ống giác.

Cách đẩy ống giác: bôi một lớp dầu thực vật hoặc va giơ lin lên hai bên huyệt phế du và chung quanh, bôi một ít lên miếng ống giác. Dùng một túm bông nhúng cồn đốt lên cho vào ống giác, rồi nhanh chóng uý lên huyệt phế du. Khi ống giác đã gắn chặt thì đẩy ống lên xuống sang phải trái, khoảng 6-8 lần, khi xuất hiện màu tím tái là được.

Chữa bằng tuỷ giác: cho nửa phần nước nóng vào cốc giác thuỷ tinh, rồi dùng một túm bông không thấm nước đặt gần miệng cốc, dùng diêm đốt, rồi nhanh chóng úp lên huyệt phế du ( cả 2 bên), để ống giác hút chặt. Động tác phỉ khẩn trương, nếu chậm khó hút được chặt, dễ bị chảy nước. Khi lấy ra, bệnh nhân đổi tư thế để miệng ống giác quay lên, khẽ ấn vào da của miệng ống, không khí lọt vào, không còn sức hút, ống giác sẽ rời ra mà nước không chảy.

Cách giác mới: Trước tiên dùng bông nhúng cồn làm sạch huyệt phế du cả hai bên, rồi dùng kim châm nhẹ lên da, cho đến khi da đỏ và hơi thấm máu là được. Phạm vi châm phải nhỏ hơn miệng ống giác, sau đó mới giác.

5. Chữa bằng dán cao.

Cao chống ho: Qua lâu 1 quả, bối mẫu 50g, thanh đái 15g, mật ong 20g. Trước tiên nghiền bối mẫu, thanh đái thành bột, rồi nghiền qua lâu ( cả hạt và vỏ), nếu qua lâu khô có thể nghiền thành bột, rồi đổ mật ong vào nồi đun lên, hớt bỏ bọt, cho cả 3 vị thuốc vào trộn đều thành cao. Cao này dán lên các huyệt phế du, hậu khê, đại trù, đặt lên một miếng gạc, dùng băng dính băng lại, mỗi ngày hoặc 2 ngày thay thuốc 1 lần. Cao này có thể uống mỗi lần 6g, sử dụng phối hợp thì hiệu quả càng nhanh. rất thích hợp đối với chứng ho phế nhiệt.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình