Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Động quí (tim hồi hộp) không rõ nguyên nhân. Tai ù có tiếng đập - huyễn vựng (chóng mặt) điều trị bằng hán phương.

Hỏi: bệnh nhân nam 57 tuổi. Tháng mười năm 1981 đã phẫu thuật sán khí. Sau phẫu thuật uống năm ngày thuốc kháng sinh. Sau hậu phẫu mấy ngày mắc chứng chẩn mề đay. Hậu phẫu sau một tháng, bắt đầu xuất hiện động quí, tai ù, (có tiếng đập) hoa mắt chóng mặt (huyễn vựng). Qua an tĩnh nghỉ ngơi, các chứng có giảm nhẹ. Nhưng động quí lại gia tăng. Kiểm tra ha, huyết dịch, tâm điện đồ không có dấu hiệu gì khác, thể hình gầy, thể cách thiên về tính thần kinh. Người này là công vụ viên, cho nên vẫn tiếp tục công tác. Nhưng vì các chứng quá mạnh, nên đã tạm xin nghỉ. Đã qua khoa ngoại thần kinh, khoa tim, khoa nội, khoa gây mê hồi sức ở một bệnh viện lớn để cầu chẩn, nhưng vì không rõ nguyên nhân nên các thứ điều trị đều vô hiệu.

Đối với bệnh nhân này ngài đánh giá là loại bệnh gì? Có quan hệ đến gây tê đốt sống eo lưng không? Có thể chữa từ gốc hoặc đối chứng liệu pháp chăng?

Đáp: căn cứ bệnh tình đã kể, nhìn theo gốc độ y học hán phương mà suy đoán về mặt thể chất bệnh nhân này là hư, có khuynh hướng thiếu thể lực, có yếu tố thần kinh, vì thế có thể nghĩ rằng:

Do khí huyết và thần kinh không ổn định, đối với chứng trạng tự giác, có khuynh hướng thể chất phản ứng quá cường liệt. Trên đây, tuy thuộc phán xét theo theo suy đoán nhưng phương đầu tiên tôi nghĩ đến là linh quế truật cam thang. Đó là phương thích ứng với chứng của bệnh nhân này.

Thiên thái dương bệnh trong thương hàn luận, điều “đàm ẩm luận” trong kim quĩ yếu lược, đều nói đến linh quế truật cam thang – thương hàn luận viết : “tân hạ nghịch mãn, khí thượng xung hung, khởi tắc đầu huyễn… thân vi chấn chấn dao giả… phục linh, quế chi, bạch truật, cam thảo thang chủ chi”.

Kim quĩ yếu lược viết:

“tâm hạ hữu đàm ẩm, hung kiếp chi mãn, mục huyễn giả, phục linh, quế chi, bạch truật cam thảo thang chủ chi”.

Nguyên nhân bệnh này có thể cho là :tâm hạ bộ có thủy độc – nhưng trên thực tế ít có khả năng thấy được các chứng mà sách cổ đã ghi hoàn toàn nhất trí, cho nên phần nhiều là nắm vững điều cương yếu mà định phương.

Trong sách “hán phương sử phương giải thuyết”, tôi đã chỉ rõ ra mục tiêu của phương này là:

Hư chứng, nhân thủy độc nhi chí huyễn vựng, thân thể dao cảm, khởi lập tính đầu hôn, khí đoản, hòa tâm khí can tiến, thượng xung hòa đầu thống đẳng. Đại đại hữu niệu lợi giảm thiểu, cấp túc bộ lãnh cảm, đãn khuyết pháp diệc vô phương. Nhân hệ hư chứng cố mạch tương cập phúc bộ quân trình nhuyễn nhược, khuynh hướng vãng vãng hữu vị nội đình thủy – phương này có khi dùng cho bệnh nhân thần kinh như chứng tâm quí can tiến do thần kinh chất, thần kinh chứng, thần kinh tính… hội chứng màng não v.v…

Bệnh nhân thể hình gầy, có tố chất thần kinh, có thể nghĩ đến dạ dày lỏng lẻo, thậm chí có khả năng nước đọng dạ dày.

Bệnh thái trình độ này e rằng trong kiểm tra lâm sàng ở các khoa chưa chắc phát hiện được kết quả dương tính, cho nên về phương diện y học hiện đại, phần lớn phải xử lý theo nguyên nhân bất minh> nhưng nhìn theo gốc độ “khí, huyết, thủy của bệnh lý quan đông y, lại rất giống như quần thể chứng đặc thù do “thủy độc” gậy ra, mà phát sinh ra các loại chứng chóng mặt, hoa mắt, nhĩ minh, động quí, do thủy độc.

Nhân đây tôi đề nghị ông nên bảo bệnh nhân hãy dùng phương này 1-2 tuần để theo dõi liệu trình. Nếu quả bệnh này thuộc thần kinh chứng, nhân đó ta có thể tiên lượng bệnh tình phản phục tiêu trưởng. Nhưng sau khi dùng thuốc, bệnh tình chỉ cần hơi chuyển, thì có thể quan sát theo dõi, đánh giá liệu trình là hơn hết

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình