Chữa trị chứng ôn táo phải dùng tân lương cam nhuận, giải biểu toả nhiệt, thanh phế nhuận táo. Thuốc chủ trị gồm có:
1. Thanh táo cứu phế thang. Dùng sương tang diệp để nhuận giãn phế táo, thạch cao để thanh lọc nhiệt trong phổi, kết hợp cả hai để thanh lọc táo nhiệt ở phổi và dạ dày, triệt căn nguyên gây bệnh, là thuốc chính. A giao, mạch đông, hồ ma nhân là thuốc nhuận phế, tăng dịch. Nhân sâm bổ khí sinh tân, hạnh nhân, ba diệp tả phế nhuận táo, đều là thuốc bổ trợ. Cam thảo điều hoà các loại thuốc. Phối hợp các thuốc nói trên, bên ngoài trừ được táo xâm phạm, bên trong nhuận dịch thanh phế khí, giải các chứng.
2. Tang hạnh thang. Bị cảm ôn táo vào mùa thu, ban đầu là phế vệ nên cần hải thanh hãn phế vệ, là nguyên tắc chữa trị. Trong bài thuốc tang diệp làm nhẹ táo nhiệt, hạnh nhân lợi cho phế khí, đều là thuốc chính. Đàm đậu cổ giúp tang diệp giải biểu, sa sâm, lê bì sinh tân nhuận phế, tri tử thanh lọc phế nhiệt, tượng bối mẫu chặn ho hoá đờm, là thuốc bổ trợ. Các thuốc kết hợp lại, có tác dụng thanh giãn táo nhiệt nhuận phế làm mát phổi.
3. Sa sâm mạch đông thang. táo làm thương tổn phần âm của phế vị, gây sốt hoặc ho, phải dùng cam hàn để cứu lấy âm. Dùng sa sâm, mạch đông là thuốc chính để bồi bổ âm của phế vị. Dùng ngọc trúc, hoa phấn, đông tang diệp là thuốc nhuận táo. Sinh phiến đậu giúp bổ vị kiện tỳ. Cam thảo nhuận tả hoả. Phối hợp các loại thuốc, có tác dụng thanh dưỡng phế vị, sinh tân nhuận táo, giải toả táo nhiệt.
4. Kiều hà thang. Táo khí thành hoả, ảnh hưởng thanh khiếu, nên cần phải lương tán, chữa bằng các loại thuốc mát. Liên kiều, bạc hà là loại thuốc chính có tính tân lương (hàn) để giải toả táo nhiệt; hắc tri bì, lục đậu bì là thuốc để làm mát và hạ nhiệt. Cam thảo, cát cánh là thuốc giúp cho lợi họng và nhuận phế. cả bài thuốc có tác dụng thanh tán táo nhiệt ở thượng tiêu |