1. Chữa bằng châm cứu.
Chọn huyệt: đại chuỳ, hợp cốc. Cách làm: bình bổ bình tả. Nếu sốt thêm huyệt khúc trì, nếu đau đầu thêm huyệt thái dương, phong trì.
2. Chữa bằng đắp thuốc.
Đậu kiều tán. Đàm đậu cổ 30g, liên kiều 15g, bạc hà 9g. các thuốc trên giã thành bột, với khoảng 20g trộn với hành trắng, nặn thành bánh đắp vào 2 huyệt phong trì, đại chuỳ, đắp vải gạc lên trên, dùng băng dính dính lại. Lại lấy thuốc khoảng 15g, đắp vào huyệt thần khuyết, sau đó nhỏ nước lên thuốc, dùng vải hoặc bánh thuốc giữ lại để phòng nước chảy ra ngoài, khi hơi thuốc ngấm được vào trong bụng thì khỏi.
3. Chữa bằng xoa bóp thuốc:
Thương truật 30g, khương hoạt 30g, bạch phàm 9g, sinh khương 30g, (giã nát). Trước tiên cho sinh khương đã giã nát vào bát sành, đặt ở trong chậu nước sôi để hâm nóng. Bột thương truật và sinh khương trộn đều, đắp vào lòng bàn tay khoảng 20 phút, rồi nằm trong buồng đắp chăn ấm, nếu cảm thấy rét nhiều lại không ra mồ hôi thì uống ngay nước gừng tươi, để thúc ra mồ hôi.
4. Chữa bằng tắm.
Tây hà liễu 100g, tô diệp 30g, cho thêm 5000cc nước đun sôi, không cần bỏ bã, dùng nước thuốc này lau rửa ngực, lưng, tay chân. Rất thích hợp với trẻ con. Cách này có tác dụng ra mồ hôi giải biểu. Nếu lượng thuốc nhiều, cho thêm nước sôi, gạn lấy nước để tắm thì hiệu quả càng lớn |