1) Chữa bằng châm cứu.
Chọn các huyệt: bách hội, thượng tinh, phong trì, đại chuỳ, khúc trì, hợp cốc, phục lưu, thái khê, thận du. Cách làm: bách hội, thượng tinh, phong trìm đại chuỳ, khúc trì, hợp cốc, dùng cách bình bổ bình tả. Phục lưu, thái lhê, thận du dùng phép bổ.
2) Chữa bằng xoa bóp.
Dùng cách ra mồ hôi khử tà biểu, dùng cách thanh lọc để trừ hư nhiệt.
Cách ra mồ hôi: dùng ngón tay miết bắt các huyệt phong trì, phong phủ để khử phong. Day bắt huyệt hợp cốc, ngoại quan để khử tà biểu. Dùng ngón tay miết day huyệt đại chuỳ, phong môn, phế du, bắt huyệt kiên tỉnh, để thúc ra mồ hôi.
Cách thanh lọc: miết khẽ lên kinh bàng quang (từ trên xuống dưới), miết cho đến khi nóng lên. Day bắt huyệt thái khê, xát vào huyệt dũng tuyền để thanh lọc hư nhiệt.
3) Chữa bằng đắp thuốc.
a) Cao thư thận. Sinh địa, thục địa, sơn dược, thù du nhục mỗi thứ 128g, đơn bì, trạch tả, phục linh toả dương, quy bản mỗi thứ 96g, ngưu tất, kỳ tử, đẳng sâm, mạch môn đông mỗi thứ 64g, thiên đông, tri mẫu, hoàng bách (sao với nước muối), ngũ vị tử, nhục quế mỗi thứ 32g. Nấu với dầu gai thành cao, dán lên ngực, huyệt đan điền. Loại cao này đắp dán ở ngoài có tác dụng bổ thận âm và thanh lý đàm nhiệt. Dùng cho người thận âm kém lại bị đàm nhiệt không thanh lý được.
b) Thanh thận tán. Đăng thảo 15g, mạch đông 30g, sinh địa 30g, đương quy 10g. Sắc lên rồi cho mật ong và bột hoàng bá 6g. Đắp ở ngực, huyệt đan điền, có tác dụng bổ thận âm, giải toà hoả. Thích hợp với người thận âm hư lại bị nhiễm hoả nặng. Hai cách đắp thuốc ở trên, có thể dùng để chữa trị bổ trợ cho chứng cảm mạo thận hư.
4) Chữa bằng tiêm vào huyệt.
Chọn huyệt: khúc trì, phục lưu, thái khê (lấy cả 2 bên). Dùng nước sài hồ hoặc nước bàn lam căn tiêm vào các huyệt trên. cách làm: sát trùng nơi tiêm, dùng kim tiêm số 5,5 tiêm vào huyệt, sau khi đắc khí, bơm vào mỗi huyệt 0,3-0,5cc thuốc, ngày 1 lần |