Linitrosuphapyridin là chất hóa hợp nitơ của axit salixilic-5 và sulfapiridin, có 2 tác dụng kháng viêm và kháng khuẩn. Từ khi chế thành năm 1930 đến nay, chủ ýêu dùng cho điều trị bệnh clone và viêm kết tràng do loét. Từ năm 1948 dùng cho điều trị viêm khớp dạng phong thấp. Sau đó, Linitrosuphapyridin có một thời gian bị coi nhẹ, nhưng từ thập nhiên 80 trờ lại đây, ở nước ngòai lại một lần nữa xác định vị trí điều trị của nó trong viêm khớp dạng phong thấp và dùng điều trị cho các bệnh việm cột sống dạng cứng đơ, chứng tổng hợp Reiter và viêm khớp do phản ứng.
Linitrosuphapyridin có dạng thuốc viên và thuốc đạn. Thuốc viên mỗi viên 0,25g, thuốc đạn mỗi loại 0,5g. Phương pháp điều trị viêm khớp do phản ứng, viêm cột sống dạng cứng đơ, chứng tổng hợp Reiter và viêm khớp dạng phong thấp bằng Linitrosuphapyridin đều tương đương nhau. Trước tiên bắt đầu bằng liều lượng thuốc nhỏ, rồi dần dần tăng lên, nếu tuần đầu là 0,25g, mỗi ngày 3 lần thì tuần thứ 2 là 0,5g, mỗi ngày 2 lần, tuần thứ ba: 0,5g, mỗi ngày 3 lần; tuần thứ 4 là 1,0g, mỗi ngày 2 lần. Duy trì lượng thuốc 2,0g/ngày, khoảng 1 năm. Liều lượng Linitrosuphapyridin không được lớn hơn 2,0g/ngày, nếu không tác dụng phụ sẽ tăng lên. Vì thời gian thuốc này có hiệu quả phải mất 2-3 tháng, nên thời gian đầu dùng thuốc phải dùng kết hợp với thuốc kháng viêm loại không chứa hoóc môn.
Tác dụng phụ của Linitrosuphapyridin gồm: buồn nôn, nôn mửa, bạch cầu giảm, da nổi mẩn, giảm thân nhiệt, gan bị tổn hại, thiếu máu, một số ít người bệnh có thể bị tổn hại xuất hiện thận bị tổn hại như có protein niệu, đi kiểm tra máu, vv. Do vậy, người bệnh dùng Linitrosuphapyridin phải đi kiểm tra định kỳ, nước tiểu, chức năng gan, thận phải đảm bảo mỗi ngày uống nước với một lượng nhất định |