Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Y học Việt Nam
Gần đây tôi được người quen mách cho một bài thuốc y học cổ truyền để điều trị chứng hoàng đản do viêm ống mật, trong đó có vị hoàng bá. Xin cho biết rõ hơn về công dụng của vị thuốc này. Nếu không tìm được hoàng bá, có thể thay bằng vị thuốc khác không?

Hoàng bá còn gọi là hoàng nghiệt.

Tên khoa học: Phellodendron amurense Rupr. (Phellodendron amurense Rupr. var. sachalinense Fr.Schmidt).

Thuộc họ cam quít Rutaceae.

Hoàng bá (Cortex Phellodendri amurensis) là vỏ thân cạo sạch vỏ ngoài phơi hay sấy khô của cây hoàng bá Phellodendron amurense Rupr, hoặc của cây xuyên hoàng bá Phellodendron amurense Rupr. var. sachalinense Fr. Schmidt đều thuộc họ Cam quít (Rutacear).

Vị hoàng bá thật hiện nay còn phải nhập vì cây này vốn chưa có ở nước ta, đang di thực và mới được một số cây. Ta thường dùng các vỏ cây khác có màu vàng như vỏ cây núc nác với tên hoàng bá nam, hay nam hoàng bá. Vì vậy cần chú ý tránh nhầm lẫn.

Tên cũ vốn là hoàng nghiệt, là vỏ màu của cây nghiệt. Sau này người ta dùng chữ bá thay cho chữ nghiệt để viết cho đơn giản (chữ nho).

Mô tả cây

Hoàng bá là cây to cao, có thể cao tới 20-25m, đường kính thân có thể đạt tới 70cm. Vỏ thân dày phân thành hai tầng rõ rệt. Tầng ngoài màu xám, tầng trong màu vàng. Lá mọc đối, kém gồm 5-13 lá chét nhỏ hình trứng dài, mép nguyên. Hoa tím đen, trong chứa 2-5 hạt. Ra hoa mùa hạ.

Ngoài cây hoàng bá kể trên, tại Trung Quốc, người ta còn khai thác vỏ cây xuyên hoàng bá Phellodendron amurense Rupr. var. Sachalinensis Fr. Schmidt (có tác giả xác định là Phellodendron sinensis Schneider), cây nhỏ và thấp hơn, 7-15 lá chét, quả hình trứng, còn quả cây hoàng bá nói trên hình cầu.

Phân bố, thu hái và chế biến

Vị hoàng bá thật hiện nay ta còn phải nhập. Tại Trung Quốc, hoàng bá mọc ở Hắc Long Giang, Hà Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.

Tại nước Nga, hoàng bá mọc ở nhiều ở vùng Xibêri.

Mấy năm gần đây, chúng ta đã xin được hạt và bắt đầu trồng thí nghiệm. Sơ bộ thấy cây mọc khỏe, tốt. Nhưng chưa đưa ra trồng với quy mô lớn.

Vỏ thân thường thu hoạch vào mùa hạ, cạo sạch vỏ ngoài, chỉ còn lớp trong dày chừng 1cm, sau đó cắt thành từng miếng dài 9cm, rộng 6cm, phơi khô. Loại tốt có màu vàng tươi rất đẹp, vị rất đắng.

Tác dụng dược lý

Nhiều thí nghiệm đã chứng minh tác dụng kháng sinh của hoàng bá, dịch chiết bằng cồn ức chế các vi trùng Staphyllococcus, lỵ, thổ tả, Salmonella.

Công dụng và liều dùng

Thuốc bổ đắng, giúp cho sự tiêu hóa, bệnh do khuẩn ở ruột lỵ. Còn dùng rửa mặt, thay hoàng liên chế becberin, chữa giun, thuốc nhuộm, đắp chữa mụn nhọt, vết thương.

Ngày dùng 5-10g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột.

Ðông y coi hoàng bá có vị đắng, lạnh, không độc, có tác dụng tả tướng hỏa, thanh thấp nhiệt, dùng làm thuốc kiện vị, ngoại khoa chữa mắt và bệnh ngoài da, còn dùng chữa hoàng đản, trĩ hậu môn, phụ nữ bị xích bạch đới.

Ðơn thuốc có hoàng bá

Kiện vị kém tiêu hóa, hoàng đản do viêm ống mật: Hoàng bá 12g, chi tử 12g, cam thảo 6g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày.

Người có thai đi lỵ: Hoàng bá tẩm mật sao cho cháy, tán nhỏ. Dùng một củ tỏi nướng chín, bóc vỏ giã nát, thêm bột hoàng bá vào viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30-40 viên.

Lở miệng, loét lưỡi: Hoàng bá chẻ nhỏ, ngậm. Nước có thể nuốt hay nhổ đi.

Chú ý: Nhân dân ta thường dùng vỏ cây núc nác với tên hoàng bá hay nam hoàng bá. Hai vị thuốc có thành phần khác hẳn nhau nhưng lại có một số tác dụng giống nhau.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình