Tên khoa học Capra sp. Thuộc họ Sừng rỗng Bovidae.
a. Mô tả con vật:
Ở nước ta hiện nay có ba giống dê chính là dê Việt Nam, dê Ấn Ðộ và dê Mông Cổ. Gốc giống dê nuôi vốn là giống dê núi Capra prisca, sau giống dê này được thuần hóa, lai tạp với nhiều giống khác như dê núi Ấn Ðộ Capra aegagrus.
Dê Việt Nam chưa rõ nguồn gốc ở đâu, có hình vóc nhỏ, chỉ cao chừng 50cm, mình dẹt, chân nhỏ, lông nhiều màu sắc, tai đứng, sừng hơi cong nhọn đưa về phía sau, dài từ 8-15cm, thỉnh thoảng có con sừng nhú hơi cong về phía trước. Dê đực mình ngắn, vạm vỡ, to hơn dê cái, đầu cổ và sống lưng có lông dài cứng, chùm râu cằm rậm, sừng dài, khi già có thể xoắn lại.
Dê Ấn Ðộ do người Pháp và Ấn Ðộ mang vào nước ta vào đầu thế kỷ 20, đã thích nghi với khí hậu Việt Nam. Dê Ấn Ðộ có thân dài và cao 80-90cm, trông mảnh khảnh, mắt thường lồi lên, tai to và rũ xuống, sừng ngắn hay không có sừng. Lông màu sẫm đen hoặc xám nhạt, vú to.
Dê Mông Cổ mới nhập vào nước ta khoảng vài chục năm gần đây. Mình vừa phải, to hơn dê ta nhưng nhỏ hơn dê Ấn Ðộ. Tai thẳng và mảnh, sừng dài, thẳng, hơi chếch về phía sau. Lông có màu trắng đen. Ðặc biệt lông có hai thứ: Lông thô dài cứng thò ra bên ngoài; Lông tơ ngắn mềm ở bên trong có thể dùng làm len.
b. Phân bố, thu hoạch và chế biến
Dê được nuôi từ lâu đời, có thể phát triển ở tất cả các vùng, nhất là trung du và miền núi, rừng núi đá như Cao Bằng, Lạng Sơn, Nam Ðịnh, Hà Nam, Ninh Bình. Dê đực 2-3 tuổi nhảy cái tốt nhất, dê cái 4-5 tháng đã có khả năng sinh sản nhưng tốt nhất là nên đợi đến 7-8 tháng; Dê cái 5-6 tuổi nên cho nghỉ đẻ. Tốt nhất là cho dê đẻ vào thời kỳ 2-4 năm tuổi. Dê chửa ít nhất 140 ngày, nhiều nhất 157 ngày thì đẻ (trung bình 147-150 ngày). Dê Việt Nam mỗi lần thường đẻ 2 con, có khi 3, ít khi 1 con. Dê Mông Cổ thường chỉ đẻ 1 con. Một năm dê có thể đẻ 2 lứa.
Hầu như tất cả các bộ phận của con dê (thịt dê, tiết dê, gan, dạ dày, tinh hoàn...) đều được dùng làm thuốc. Gần đây có nơi nấu cao dê hoặc chỉ dùng xương, hoặc dùng cả thịt lẫn xương (bỏ ruột gan) để nấu cao dê toàn tính.
c. Công dụng và liều dùng
Tiết dê (dương huyết): Máu dê vừa chảy ra cho ngay vào rượu 40 độ (1phần tiết, 3-4 phần rượu), lắc đều. Ngày uống 20-40ml rượu này làm thuốc bổ huyết, chữa choáng váng, chóng mặt, nhức đầu, đau lưng. Theo tài liệu cổ, tiết dê có tác dụng giải những chất độc thuộc khoáng vật.
Thịt dê (dương nhục): Theo tài liệu cổ, thịt dê có vị ngọt, tính rất nóng, không độc, vào ba kinh tỳ, vị và can, có tác dụng trợ dương, bổ tinh huyết, dùng chữa ho lao, gầy yếu, phụ nữ sau khi sinh gầy yếu, khí hư, cạn sữa, huyết hôi đều dùng được. Dùng thịt tươi nấu chín cùng một số vị thuốc khác như xuyên khung, mỗi ngày dùng từ 40-60g.
Gan dê (dương can): Chữa những trường hợp can phong hư nhiệt, mắt mờ đỏ, sau khi khỏi sốt bị mờ mắt. Mỗi ngày ăn 30-60g nấu chín, dùng riêng hay phối hợp với một số vị thuốc khác.
Tinh hoàn dê: Trị thận yếu, tinh hoạt. Ngày dùng 25-30g, ngâm rượu uống.
Dạ dày dê: Chữa gầy yếu, ăn vào bị nôn mửa. Ngày uống 20-30g.
Ðơn thuốc có những vị thuốc lấy từ dê
Cao dê toàn tính: Chữa thiếu máu, hay đau bụng, gầy còm, hay đau mỏi lưng. Toàn con dê, mổ bỏ ruột, cạo lông, nấu với nước nhiều lần. Nước nấu được lọc trong, cô thành cao mềm. Ngày uống 5-10g.
Dương quy sinh khương dương nhục thang: Chữa phụ nữ sau khi sinh xong suy yếu, gầy còm, kém ăn, ít sữa (trích ở sách Kim Quỹ): Ðương quy 5g, sinh khương 10g, thịt dê 40g. Nấu chín kỹ, chia làm hai lần ăn trong ngày.
Trẻ con hay ăn đất: Thịt dê 20g nấu kỹ lấy nước cho uống.
Chữa đau nhức xương: Thịt dê 100g, hoài sơn 100g, gạo tẻ một ít, nấu cháo thật nhừ ăn trong ngày.
Nguyên dương đại bổ (thuốc do Câu lạc bộ y học dân tộc TPHCM sản xuất từ tháng 4/1981 theo đơn của cố lương y Nguyễn Kiều): Viên hoàn 10g/hoàn, gồm 10 vị: Xương thịt dê non sấy khô, đậu đen, thổ phục linh, rau má, mạch nha, ngải cứu, cám nếp, diêm sinh, phèn chua, tất cả tán nhỏ luyện với mật ong thành hoàn. Có tác dụng bồi bổ toàn thân cho trẻ em, người cao tuổi, ngày dùng 1-2 hoàn.
Chú ý: Không nên dùng nhầm con dê núi Capra prisca và con sơn dương có tên khoa học Capri conrnis sumatresis, cũng gọi là dê núi hay dê rừng, thường ở núi đá vôi. Cả hai con này đều được dùng làm thuốc như dê nhà nhưng hiếm và quý hơn.
|