để tạo ra MID và DIT cũng như khâu kết hợp 2 iotđotyrosin để tạo ra T3 và T4.
Iôt và Lithi can thiệp vào khâu giải phóng protein để giải phóng T4 và T3 ra dòng máu.
Cơ thể con người thu nhận các chất kháng giáp qua thực phẩm và các loại thuốc. Trong thực phẩm chất kháng giáp đã được phát hiện ở sắn, ngô, bắp cải, củ cải, một số loại đậu, lạc, hạt quả cọ, măng tre và cả ở rong biển. Những chất kháng giáp đó có thể gây thành dịch lưu hành bướu cổ và bệnh đần độn cho con người tùy thuộc số lượng thực phẩm ăn vào.
Người ta cũng đã phát hiện 1 số chất kháng giáp trong nước như chất có trong môi trường nuôi cấy E. Coli : lithi, rezoxinol; nhiều kháng chất ở trong đất bị hòa tan vào nước, chất độc linamarin trong củ sắn.
Có nhiều thuốc chữa bệnh đồng thời gây bệnh bướu cổ, trước hết là nhóm thuốc chữa nhiễm độc giáp : metyl thiouracil (MTU), PTU, methimazole, perchlorate…
Iôt, một số thuốc cản quang có chứa iôt và một số thuốc chữa bệnh tim mạch như amiodarone khi dùng quá liều cũng có thể gây bướu cổ. Ngoài ra phải kể tới colalt, amino glutethimide, lithi, metylxanthine, resorcinol, axit PAS, sulfonylure…khi dùng cần chú ý đề phòng tránh gây bướu cổ. Nói tóm lại chất kháng giáp là 1 nguyên nhân phối hợp làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu iôt. Bổ sung iôt với liều lượng thích hợp có thể khắc phục được tác hại của chất gây bướu cổ.
Triệu chứng lâm sàng bệnh bướu cổ địa phương chia làm 3 nhóm : độ lớn của bướu cổ; tình trạng giải phẫu của bướu cổ; sự liên quan của bướu cổ đến các bộ phận xung quanh.
Tuyến giáp bình thường nặng 15 – 25g, từ 35g trở lên coi như bị bướu cổ. Có trường hợp trọng lượng 1 – 2kg hoặc hơn nữa, thiếu iôt nặng và càng lâu ngày bướu cổ càng lớn. Có rất nhiều cách phân chia độ lớn của bướu cổ song chưa phương pháp nào hoàn chỉnh. Ở Việt Nam từ 1970 người ta sử dụng phương pháp phân chia độ lớn của bướu cổ do Tổ chức y tế thế giới giới thiệu để điều tra bệnh bướu cổ trên thực địa.
Độ O : nắn và nhìn không thấy tuyến giáp
Độ IA : nắn thấy tuyến giáp ở tư thế thường; khi bệnh nhân ngửa cổ ra sau không nhìn thấy tuyến giáp.
Độ IB : nắn thấy bướu cổ ở tư thế thường, khi bệnh nhân ngửa cổ ra sau nhìn thấy mỗi thùy tuyến giáp to bằng đầu ngón tay cái bệnh nhân trở lên.
Độ II : Nhìn rõ bướu cổ ở tư thế thường.
Độ III : Bướu cổ rất to.
Trong trường hợp cần theo dõi điều trị, có thể dùng phương pháp vẽ sơ đồ lớn của bướu hoặc dùng thước dây để đo vòng cổ. Hiện nay đã có máy ghi siêu âm xách tay dùng khám bệnh bướu cổ. Phương pháp này có thể cho ta hình ảnh rõ ràng về độ lớn và tình trạng giải phẫu của bướu cổ.
Có 3 thể bướu cổ xét từ góc độ giải phẫu bệnh. Thể lan tỏa nếu bướu mềm đều, thể nhân khi bướu cổ một hoặc nhiều nhân (khám lâm sàng thường chỉ có thể phát hiện những nhân có đường kính lớn trên 1cm) và thể hỗn hợp nếu trên bướu cổ vừa có phần mềm đều vừa có nhân. Việc phát hiện bướu cổ thể nhân trong bệnh bướu cổ địa phương có ý nghĩa quan trọng. Bướu nhân ở trẻ em báo hiệu tính chất trầm trọng của 1 vùng bướu cổ, bướu nhân có thể trở thành bướu độc khi tiêm dầu iôt.
Về chức năng giáp, trong vùng bướu cổ địa phương đa số bệnh nhân thường bình giáp nhưng trong vùng thiếu iôt nặng nhiều trường hợp thiểu năng giáp lâm sàng chưa được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Tăng năng giáp không phải là rối loạn chức năng giáp vốn có của bệnh bướu cổ địa phương nhưng có thể là biến chứng ở những người đứng tuổi, bị thiếu iôt đã lâu năm, trong bướu cổ có nhân hoặc những đám tế bào đã trở thành tự trị, tăng nhạy cảm với iôt mới được thu nhập thêm qua muối iôt (Stanbury và Cs, Thyroid, V8, NI, 1998).
Bệnh đần độn lưu hành : Năm 1972, Tổ chức y tế Châu Mỹ (PAHO) đã đưa ra định nghĩa về bệnh đần độn lưu hành như sau :
Tình trạng đần độn được xác định bởi 3 đặc điểm chính : về dịch tễ học bệnh này có liên quan với bệnh bướu cổ và tình trạng thiếu iôt nặng. Triệu chứng lâm sàng biểu hiện ở thiểu năng trí tuệ kết hợp với 1 hội chứng thần kinh chiếm ưu thế, gồm các khuyết tật nghe, nói, lác mắt, rối loạn về thế đứng; dáng đi hoặc với 1 hội chứng thiểu năng giáp chiếm ưu thế và bị lùn. Trong 1 số vùng xuất hiện 1 trong 2 hội chứng kể trên chiếm ưu thế, còn ở vùng khác thì tồn tại cả 2. Về phòng bệnh, trong những vùng đã khắc phục tình trạng thiếu iôt, bệnh đần độn lưu hành được ngăn chặn.
Định nghĩa này mang nhiều tính chất mô tả nặng về dịch tễ học và chỉ nêu 2 thể điển hình, có thể coi như 2 cực của một phổ các triệu chứng và thể bệnh rất phức tạp. Đến nay nhiều công trình nghiên cứu đã phát hiện rõ hơn về sinh bệnh học và đặc biệt về triệu chứng học, làm phong phú thêm sự hiểu biết về 2 thể bệnh nói trên.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh đần độn lưu hành gồm 3 hội chứng : hội chứng chậm phát triển trí tuệ, hội chứng thần kinh và hội chứng thiểu năng giáp.
Hội chứng chậm phát triển trí tuệ có thể từ nhẹ đến nặng. Bệnh nhân chậm biết nói, lời nói rời rạc hoặc không nói được, nhận thức trừu tượng kém, học tập khó khăn, chậm hiểu. Sinh hoạt cá nhân (ăn, mặc, vệ sinh) thường phải nhờ sự giúp đỡ, trường hợp nhẹ bệnh nhân có thể lao động đơn giản. Khám hội chứng chậm phát triển trí tuệ cần kết hợp khám lâm sàng với làm test đo bậc thang phát triển trí tuệ.
Hội chứng thần kinh: khuyết tật nghe và nói khoảng 50% bệnh nhân đần độn có thể bị điếc, có thể dùng phương pháp B.I.A.P để chia mức độ điếc (nếu không có máy đo thính lực).
Mức I : người khám thở vào gắng sức rồi thở ra dài đến khi không còn khí cặn nữa thì nói; bệnh nhân không nghe được (tương đương 20 – 40dB).
Mức II : Nói to vừa bệnh nhân không nghe được (tương đương 40 – 70dB).
Mức III : hét to gần tai bệnh nhân không nghe được (tương đương 70 – 90dB).
Mức IV : hét to trực tiếp vào tai cũng không nghe được (trên 90dB).
Bệnh nhân có thể nói ngọng, nói khó khăn hoặc bị câm, mắt có thể bị lác, đảo tròng mắt, đôi khi bị sa mí mắt. Rối loạn chức năng bó tháp nhất ở phần gốc chi : phản xạ tăng ở chi dưới nhiều hơn ở chi trên, hầu hết bệnh nhân có tăng phản xạ đầu gối, một số trường hợp tăng phản xạ gân gót. Trong những ca có dấu hiệu co cứng cơ, có thể thấy phản xạ cơ ngực và cơ khép, tăng trương lực cơ chi trên và chi dưới, đôi khi có phản ứng co duỗi gan bàn chân.
Hầu hết bệnh nhân có tư thế rất đặc biệt, bệnh nhân đi đứng cổ nghiêng về 1 bên, háng và đầu gối bị gấp lại, thân ngả về phía trước, hai tay không lúc lắc, đi có dáng kéo lê, bàn chân bẹt và vẹo ra ngoài, đi chệnh choạng hai đầu gối đập vào nhau. Cánh tay ở trong tư thế đặc biệt : vai khép, khuỷu và cổ tay co lại, có trường hợp tay chỉ bị tật ở 1 bên, cổ tay co gập lại, ngón tay có đốt mu tay lại duỗi ra quá mức, một vài bệnh nhân bị vẹo cổ, cơ cổ và mặt bị co cứng. Hệ cơ xương có nhiều biến dạng, đặc biệt ở những khớp chịu lực của cơ thể : khớp háng, khớp bàn chân và gót chân. Chụp X quang xương hông và khớp háng có thể thấy gốc giữa cổ xương đùi và xương đùi bị hẹp lại, đùi cong vào trong hoặc góc đó mở rộng ra, đùi cong ra ngoài. tật đùi cong ra ngoài thường gặp ở người đần có chức năng giáp bình thường, còn tật đùi cong vào trong gặp ở người đần thiểu năng giáp, đôi khi gặp 1 số trường hợp bị sai khớp háng nhẹ hoặc trật khớp.
Chụp sọ bằng phương pháp scane trong 1 số trường hợp, phát hiện hình vôi hóa thạch có liên quan đến bệnh nhân đần độn bị thiểu năng giáp. Ngoài ra đã phát hiện 1 số bệnh nhân bị teo não, có dấu hiệu nhồi máu, có lẽ do chấn thương khi đẻ, tiểu não cũng có dấu hiệu bị teo.
Hầu hết bệnh nhân đều có dáng đi không bình thường, trường hợp nhẹ bệnh nhân đi “vòng kiềng”, trường hợp nặng bệnh nhân có dáng đi chậm chạp, đi lết 2 chân, quay mình bằng những cử động cứng đơ và giật cục, hai chân xoạc rộng, cử động tay không cân đối hoặc mất hẳn, có bệnh nhân không đi được.
Những dấu hiệu thần kinh kể trên gặp ở người bị bệnh đần độn thể thần kinh và ở thể thiểu năng giáp. Trong 68 bệnh nhân đần độn phát hiện ở các huyện Chợ Đồn, Na Hang và Mộc Châu có 12 người bị thiểu năng giáp, trong đó có 6 người bị ngọng, câm, điếc và 2vừa câm vừa điếc, liệt cứng chi dưới, bàn chân duỗi quá mức.
Hội chứng thiểu năng giáp trong các bệnh đần độn thiểu năng giáp là hội chứng lâm sàng xuất hiện khi sự sinh sản hocmon giáp bị giảm so với nhu cầu. Hình ảnh lâm sàng rất phức tạp, phụ thuộc vào lứa tuổi mắc bệnh, mức độ nặng hay nhẹ.
Phù niêm là thể nặng nhất, có triệu chứng đầy đủ khi bệnh nhân bị thiểu năng giáp nặng, triệu chứng lâm sàng thường gặp là mặt phù niêm, nét mặt thô, phù ở mi mắt, xung quanh mặt, phù ở mặt trước tay và chân, bệnh nhân tăng cân. Da khô lạnh, màu vàng bủng, tóc khô dễ gãy có thể rụng từng mảng; da có thể có dấu hiệu sừng hóa ở những vùng có nhiều nếp nhăn hoặc có những chỗ bị mất sắc tố bao quanh bởi 1 vùng da sạm. Bệnh nhân có dáng điệu mệt mỏi, hay buồn ngủ; giọng nói khàn, trí nhớ kém có thể ở trạng thái trầm uất, đôi khi có ảo giác, hôn mê do phù niêm với triệu chứng hạ thân nhiệt là 1 biến chứng rất nặng.
Về tiêu hóa, bệnh nhân thường táo báo, nếu phù niêm nặng có thể thấy cổ trướng, hô hấp hơi thở nông, đôi khi có tràn dịch màng phổi. Về tuần hoàn tim có thể to ra, nhịp giảm, sóng T dẹt hoặc đảo ngược, đôi khi có tràn dịch màng tim, bệnh nhân có thể bị thiếu máu.
Chẩn đoán thiểu năng giáp thể nặng dễ hơn chẩn đoán thiểu năng giáp thể nhẹ vì dấu hiệu lâm sàng ít và không đặc hiệu. Tình trạng mệt mỏi, vẻ mặt hơi phù là những dấu hiệu nghi ngờ thiểu năng giáp thể nhẹ. Cần định lượng TSH, nếu TSH tăng cao trên 6mU/ml là 1 dấu hiệu quan trọng để xác định thiểu năng giáp.
Ngoài các bệnh thiểu năng giáp có dấu hiệu lâm sàng, còn 1 thể thiếu năng giáp kín đáo chỉ có các rối loạn thể dịch. Nhưng đã tự cân bằng do cơ thể tăng sản xuất TSH, định lượng thấy TSH tăng cao và nghiệm pháp TRH là những xét nghiệm cần thiết để xác định chẩn đoán.
Đối với trẻ em triệu chứng lâm sàng thiểu năng giáp có 1 phần giống như đã trình bày ở trên, nhưng trẻ em là lứa tuổi đang phát triển mạnh về tinh thần và thể lực, khi bị thiểu năng giáp trẻ thường bị chậm phát triển trí tuệ, chiều cao, chậm phát triển sinh dục.
Chẩn đoán bệnh đần lưu hành cần chú ý loại bỏ các trường hợp trẻ bị tai biến sản khoa, viêm màng não, bị bệnh Down…và cần chú ý đến tài liệu dịch tễ học bệnh bướu cổ và tình trạng thiếu iôt trong vùng. Cần có sự hợp tác giữa các thầy thuốc tâm thần kinh, nội tiết, tai mũi họng.
Hiện nay, hội chứng thiểu năng giáp có thể điều trị được còn thương tổn thần kinh và trí tuệ thì không thể chữa khỏi được, chỉ có thể điều trị phục hồi chức năng.
Nguyên tắc điều trị thiểu năng giáp ở bệnh nhân đần độn tương tự như điều trị thiểu năng giáp tiên phát nói chung, chỉ có thể khắc phục hoàn toàn bệnh đần độn lưu hành, nếu phòng bệnh bằng iôt được bắt đầu ngay từ thời kỳ đầu của bào thai.
Nguyên nhân chủ yếu gây các bệnh đần độn lưu hành là do thiếu iôt. Ngoài ra có 1 số yếu tó có thể kết hợp với thiếu iôt làm cho bệnh nhân nặng hơn như thừa thiocynant, thiếu selen; mangan; kẽm; cũng như vai trò của tự miễn như kháng thể kháng thyroglobulin. Sinh bệnh học hiện nay có 3 thuyết chính.
Thai bị thiểu năng giáp : người ta phát hiện ở các vùng thiếu iôt nặng (Trung Quốc, Zaia, Ấn Độ, Hy Lạp, Angiêri) trẻ bị bệnh thiểu năng giáp trước khi sinh nhất là thời kỳ não bắt đầu phát triển, thì những thương tổn não không hồi phục được. Trên thực nghiệm gây thiểu năng giáp cho thai sẽ tạo ra những thương tổn ở tai trong. Có lẽ đây là nguyên nhân gây chứng động kinh do tiếng động ở con chuột mới đẻ (con của những con chuột mẹ bị thiếu iôt nặng).
Mẹ bị giảm thyroxin trong máu : ở vùng thiếu iôt, nếu thyroxin - huyết ở người mẹ giảm thì có thể gây chậm phát triển thần kinh cho con (Konig 1968). Trên thực nghiệm khi chuột mẹ bị giảm thyroxin - huyết thì thai bị giảm thyroxin - huyết và thương tổn não xảy ra ngay từ giai đoạn đầu của mỗi thời kỳ có thai. Hiện nay người ta chưa biết rõ số lượng hocmon giáp có thể qua nhau thai trước và sau giai đoạn phát triển tuyến giáp của thai; cũng như chưa biết rõ ảnh hưởng của sự giảm thyroxin huyết của mẹ đối với sự phát triển bào thai.
Thiếu iôt : iôt trực tiếp có tác dụng đối với sự phát triển của não. Khi bổ sung iôt cho mẹ thì có thể phòng được bệnh đần độn thể thần kinh. Tuy vậy cần được nghiên cứu kỹ hơn tác dụng của iôt là đơn độc hay phối hợp với hocmon giáp.
Dựa trên các thuyết trên, nhà thần kinh học Delong (1986) đưa ra quan niệm rằng các thương tổn thần kinh trong bệnh đần thể thần kinh là do thiếu iôt thông qua thiểu năng giáp. Sự khác nhau giữa thể đần thần kinh thuần túy và đần phù niêm phụ thuộc vào thời gian và mức độ thiểu năng giáp của mẹ và thai. Thể thần kinh có thể do giảm thyroxin - huyết ở cả mẹ và thai thời kỳ những tháng giữa kỳ thai; thể đần thiểu năng giáp phát sinh những tháng cuối do chính thai bị giảm thyroxin huyết; còn mức cung cấp thyroxin từ mẹ qua thai trong thời kỳ đầu vẫn bình thường.
Halpern 1991 nghiên cứu tỉ mỉ về thần kinh trên 139 bệnh nhân thuộc 2 vùng khác nhau (ở vùng thể đần thần kinh chiếm ưu thế và ở vùng thể đần phù niêm chiếm ưu thế), ông nhận thấy ở cả 2 vùng hội chứng thần kinh đều có biểu hiện tương tự nhau. Tác giả kết luận rằng các triệu chứng thần kinh gặp ở cả 2 thể bệnh đần độn thể hiện thương tổn xảy ra ở nhiều nơi của hệ thần kinh trong thời kỳ phát triển. Kết quả nghiên cứu này ủng hộ quan điểm cho rằng tình trạng giảm thyroxin huyết ở mẹ và thai do hậu quả của thiếu iôt, là sự kiện sinh bệnh học đầu tiên trong sự phát sinh bệnh đần độn. Sự khác nhau giữa 2 thể đần có thể do tình trạng thiểu năng giáp sau khi ra đời, dẫn tới thể đần phù niêm gây ra chậm phát triển bộ xương, chiều cao và chậm phát triển sinh dục.
Ngoài 2 thể điển hình của bệnh đần độn đã trình bày trên, trong vùng thiếu iôt nặng còn có nhiều người bị chậm phát triển tinh thần và vận động mức độ nhẹ. Một số tác giả nước ngoài gọi thể bệnh là “dạng đần độn” hoặc gọi là những tật nhẹ về trí tuệ và vận động. Bệnh nhân có thể bị 1 vài triệu chứng của bệnh đần độn nhất là bị chậm phát triển trí tuệ nhẹ hoặc vừa. Chẩn đoán dựa vào thương số trí tuệ (IQ), thương số phát triển (DQ) và so sánh người mắc bệnh giữa 2 vùng thiếu và không thiếu iôt. Ở những bệnh nhân này T4 thường thấp. Nhiều tài liệu nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy rằng ở thể bệnh này có thể giảm đi một phần sau khi được phòng bệnh bằng iôt.
Trẻ sơ sinh rất nhạy cảm với tình trạng thiếu iôt, trong vùng không thiếu iôt tỷ lệ thiểu năng giáp sơ sinh khoảng 1/3.000 – 4.000 trẻ. Tỷ lệ này tăng dần theo mức độ thiếu iôt và lên tới 10 – 15% số trẻ sơ sinh ở vùng thiếu iôt nặng. Chẩn đoán lâm sàng thiểu năng giáp ở trẻ sơ sinh gặp nhiều khó khăn vì các triệu chứng phát triển từ từ. Trong trường hợp thiểu năng giáp sơ sinh điển hình có thể thấy các triệu chứng như vàng da kéo dài, táo bón, khó bú, thở khò khè, lơ mơ, hạ thân nhiệt, ngủ nhiều, vẻ mặt phù niêm, tiếng khàn, da khô, thoát vị rốn, thóp trước rộng. Nếu không được chữa sớm từ thời kỳ sơ sinh, các dấu hiệu thương tổn thần kinh sẽ xuất hiện. Letarte J. (1985) đề nghị 1 bảng kê các triệu chứng và cho điểm sẵn để giúp cho việc chẩn đoán lâm sàng thiểu năng giáp trẻ sơ sinh. Khi khám đánh dấu các triệu chứng tìm thấy trên bệnh nhân và cộng số điểm lại. Nếu tổng số điểm từ 2 trở lên có thể nghi thiểu năng giáp sơ sinh, nếu đủ 3 điểm : chắc chắn là thiểu năng giáp trẻ sơ sinh. Dưới đây là bảng cho điểm để chẩn đoán thiểu năng giáp trẻ sơ sinh.
TT |
Triệu chứng |
Số điểm |
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 |
Khó bú, khó nuốt
Táo bón
Ít cửa động
Cơ mềm
Thoát vị rốn (trên 0,5cm)
Lưỡi dày và to
Da có vân màu hơi đậm
Da khô
Thóp sâu rộng (trên 0,5cm)
Vẻ mặt phù niêm |
1
1
1
1
1
1
1
1,5
1,5
3 |
Khoảng 15 năm gần đây nhờ sự tiến bộ kỹ thuật định lượng TSH và hocmon giáp, ở các nước phát triển người ta đã xét nghiệm sàng lọc cho tất cả các trẻ sơ sinh trong nước. Phương pháp này đã được áp dụng để nghiên cứu ở 1 số nước đang phát triển. Người ta lấy máu ở dây nhau sau khi cắt rốn hoặc lấy 1 giọt máu vào ngày thứ 5 – 7 sau khi đẻ và gửi đến phòng thí nghiệm. Những trẻ sơ sinh có mức độ TSH trên 50mU/ml và T4 dưới 5mcg/dl được khám lại để chẩn đoán xác định thiểu năng giáp. Chỉ số mắc thiểu năng tuyến giáp sơ sinh có thể được dùng để đánh giá mức độ thiếu iôt (F.Delange, The Thyroid and Age; Schattauer 1998).
Sau khi chẩn đaón xác định, bệnh nhân phải được điều trị bằng hocmon giáp, trường hợp điều trị bằng L – thyroxin có thể cho 5 - 7µg cho 1 cân trọng lượng cơ thể, bệnh nhân cần được theo dõi lâu dài, liên tục.
Phòng các rối loạn do thiếu iôt
Nguyên tắc chung là phải bổ sung iôt cho mọi người dân sống trong vùng thiếu iôt, đặc biệt chú ý phòng bệnh cho trẻ em và phụ nữ lứa tuổi thai nghén. Liều lượng iôt phải chính xác bổ sung liên tục và lâu dài. Có nhiều phương pháp bổ sung iôt ; trộn iôt vào muối ăn gọi là muối iôt; dùng dầu iôt để tiêm hoặc uống, pha iôt vào nước…
Muối iôt được dùng đầu tiên 1920 ở Hoa Kỳ và Thụy Sĩ. Từ 1950 phương pháp này được dùng ở nhiều nước Châu Âu và ngày nay được phổ biến ở hầu hết các vùng bị thiếu iôt trên thế giới. Muối dùng để trọng với iôt phải là loại muối tốt chứa 95% NaCl hàm lượng ẩm không quá 6%, muối sản xuất theo phương pháp phơi cát chỉ có 90 – 92% NaCl và hàm ẩm trên dưới 10%. Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, muối dễ bị chảy nước, để hạn chế các nhược điểm đó dùng thuốc iôt dưới dạng kali iođat; liều lượng khi trộn vào là 300µg iôt/10g muối (chuyển đến người sử dụng chỉ còn 150 - 200µg). Hiện nay ở Việt Nam đang dùng các nhà máy trộn muối iôt bằng phương pháp phun sương, ở 1 số tỉnh còn dùng phương pháp thủ công.
Trong điều kiện khí hậu và chất lượng muối hiện nay và với kỹ thuật đóng bao bằng PE, cở 2kg dán kín và đảm bảo không vỡ thì muối trộn iôt đến tay người tiêu dùng bị hao hụt sau 12 tháng và khoảng 25% số lượng ban đầu. Rất khó tính toán chính xác số lượng cần cung cấp cho 1 người trong năm. Ở Thụy Sĩ số muối trung bình bán ra cho 1 người năm 1923 là 12,5kg, năm 1980 là 7,5kg (xấp xỉ 20g/người/ngày). Để tính số lượng iôt thực sự đưa vào cơ thể, người ta dùng phương pháp định lượng natri - niệu trong 24 giờ hoặc trên 1g creatinin. Phải cung cấp đủ muối iôt cho những vùng thiếu iôt cho tới khi thanh toán bệnh bướu cổ và tiếp tục dùng lâu dài.
Sản xuất và phân phối muối iôt là 1 vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, cần có luật quy định rõ việc cung cấp muối iôt cho những vùng phải phòng, tuyên truyền vận động cán bộ nhân dân dùng muối iôt.
Việc thanh toán bệnh bướu cổ và bệnh đần độn đã được thực hiện ở 1 số nước Châu Âu. Ở Thụy Sĩ theo đánh giá của Konig 1960 không có người mắc bệnh đần độn sau khi phòng bệnh bằng muối iôt. Wespi coi bệnh câm điếc như 1 dấu hiệu của bệnh đần độn và thấy 1922 – 1930 số học sinh câm điếc phải dựa vào các trường học đặc biệt, giảm 50%, tỷ lệ bướu cổ giảm rất nhanh ở trẻ em. Ở Việt Nam theo dõi tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ địa phương ở những xã đã được phòng bệnh bằng muối iôt, tỷ lệ mắc bệnh ở các lứa tuổi mỗi năm giảm trung bình 2 – 3% (theo dõi trong 14 năm).
Theo nghiên cứu do Ủy ban quốc tế chống các rối loạn do thiếu iôt (1996); đối với tuyệt đại đa số người được phòng bệnh bằng muối iôt không có tai biến xảy ra. Đối với 1 số người mẫn cảm, bị thiếu iôt lâu năm, khi được nâng cao nhanh thu nhập iôt sẽ dấn tới nguy cơ bị các tai biến do iôt, đặc biệt là bị tăng năng giáp do iôt (TNGI). Thể bệnh này được phát hiện hầu hết ở các vùng được phủ muối iôt, tỷ lệ TNGI tăng từ 3 lên 7 bệnh nhân trong 100.000 dân. Ở Thụy Sĩ sau 18 tháng tỷ lệ bệnh nhân TNGI nhập viện tăng 27%, sau đó tỷ lệ tăng năng giáp giảm dần. TNGI thường xảy ra ở những người trên 45 tuổi, bị thiếu iôt đã lâu, trong tuyến có hiện tượng tăng tỷ lệ tế bào giáp tăng sinh và đột biến tạo ra những nhóm những nhân tự trị, khi được bổ sung thêm iôt, những tổ chức này tăng tiết hocmon gây tăng năng giáp. Tăng năng giáp do iôt là tai biến ít nhưng cần được chú ý và khó chẩn đoán nhất là khi xảy ra ở nông thôn miền núi. Khi cung cấp muối iôt cho 1 vùng cần tổ chức các điểm kiểm soát chặt chẽ liều lượng iôt trong muối iôt, trong nước tiểu, kịp thời chỉnh liều iôt, phát hiện sớm tai biến TNGI và điều trị hợp lý.
Xét về lợi ích nhiều mặt và rất to lớn, hiện nay muối iôt vẫn được chọn là phương pháp cơ bản để phòng bướu cổ, bệnh đần độn và các rối loạn do thiếu iôt.
Dầu iôt được bào chế bằng cách gắn iôt vào dây nối kép của axit béo chưa có trong dầu thực vật. Biệt dược của dầu iôt được bán rộng rãi là lipiodol được sản xuất bằng dầu hạt cây thuốc phiện, trọng lượng iôt chiếm 38% trọng lượng dầu, 1ml dầu lipiodol có chứa 480mg iôt. Dầu này có tên là ethiodol ở thị trường Hoa Kỳ và neohydrol ở thị trường Châu Âu. Gần đây Trung Quốc mới bán 1 loại dầu có chứa 24 – 28% iôt, đóng thành nang để uống, mỗi nang có 200mg iôt.
Lipiodol vốn là chất cản quang dùng để chụp hang lao phổi bằng X quang. Khoảng những năm 60 nhận thấy lipiodol có tác dụng đối với bệnh bướu cổ nên đã được nghiên cứu áp dụng đầu tiên ở Papua Niu Ghine (Butterfield và Hetzet 1967). Đến nay phương pháp này được phổ biến ở nhiều nước trong đó có Việt Nam. Trên thế giới đã có hàng chục triệu người được phòng bệnh bằng dầu iôt.
Ở Việt Nam dầu iôt được dùng để tiêm cho hơn 1 triệu người.
Đối với lipiodol liều lượng được quy định như sau : 0,2ml cho phụ nữ có thai; 0,5ml đối với trẻ em dưới 1 tuổi và 1ml đối với các lứa tuổi còn lại. Khi tiêm phải sát trùng ống tiêm và kim tiêm trong nước sôi hoặc trong nồi áp suất 15 phút. Nếu luộc bằng xoong phải đun sôi 30 phút để phòng virut viêm gan B và virut SIDA, phải theo dõi 2 lần : một tuần sau khi tiêm để phát hiện apxe và 5 – 6 tháng sau khi tiêm để phát hiện tăng năng giáp. Đối tượng cần phải tiêm phòng bệnh là phụ nữ dưới 45 tuổi và trẻ em. Không tiêm lipiodol cho những người bị bướu nhân vì dễ gây tai biến tăng năng giáp.
Kinh nghiệm ở Việt Nam cho thấy ở miền núi, tiêm phòng dầu iôt tỷ lệ mắc bướu cổ độ Ia và Ib giảm nhanh (76,53%) sau 1 năm. Có những trường hợp bướu lớn tiếp tục nhỏ dần 5 – 6 năm sau 1 lần tiêm. Tuy nhiên cũng có hiện tượng bướu cổ to thêm ở bệnh nhân bị bướu cổ độ Ia khoảng 3,5% sau 1 năm và 4,3% sau 3 năm, số người tăng năng giáp được phát hiện rất ít.
Việc dùng dầu iôt để uống còn ít được nghiên cứu. Theo Hetzel 1989 dùng 1ml (480mg iôt) có thể phòng bệnh được 1 năm cho người lớn, dùng 2ml có thể phòng bệnh 2 – 3 năm. Đối với vùng thiếu iôt không nặng (iôt niệu khoảng 50µg/ngày) dùng 1ml có thể phòng bệnh được 2 năm. Bệnh giun sán và 1 số bệnh đường tiêu hóa có thể cản trở việc hấp thu iôt. Từ 1997 dầu iôt đã không được dùng để phòng bệnh ở nước ta vì đã có muối iôt thay thế.
Ngoài 2 phương pháp trên, nước uống pha iôt đã được sử dụng ở một số nước. Người ta dùng hỗn hợp iôt để bổ sung iôt và để sát trùng nước. Một máy cấp iôt đơn giản được gắn vào dòng nước máy để cung cấp đến gia đình. Phương pháp này có hiệu quả nhưng đòi hỏi phải có cơ sở cung cấp nước tập trung. Trung bình 1 người chỉ uống 1 – 2% tổng số nước có pha iôt đượccung cấp nên phương pháp này gây lãng phí iôt. Phương pháp pha dung dịch iôt vào thùng đựng nước ăn đã được dùng ở Thái Lan. Gần đây người ta chế ra hợp chất iôt đựng trong những khối silicon, khi ngâm khối silicon iôt này vào giếng nước, iôt sẽ được thải dần vào nước. Những khối này có thể dùng ở những nơi có giếng khoan hoặc bể nước là nguồn cung cấp nước cho nhiều gia đình hoặc 1 xóm. Hiện nay giá thành của những khối silicon iôt này còn cao và việc áp dụng phương pháp này ở Việt Nam mới bắt đầu nghiên cứu