Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Thiếu máu do axit folic như thế nào?

Thiếu máu di thiếu Axit folic ít phổ biến hơn thiếu máu thiếu sắt, trong nhóm thiếu máu dinh dưỡng.

Axit folic là tập hợn một nhóm chất hoá học và sinh học gần nhau: axit tetra – hyđro folic là thành phần chung của các coenzym folic, là dạng hoạt động của Axit folic.

Axit folic được phân bố hầu hết các mô cơ thể, đặc biệt là gan, hiện nay, chưa biết rõ lượng Axit folic (hoặc folat) toàn bộ chứa trong cơ thể. Khó xác định được lượng Axit folic dự trữ, song chắc chắn là rất ít, nhưng đủ cho nhu cầu của cơ thể trong 4 –5 tháng.

Các dẫn chất của Axit folic tham gia vào chuyển hoá một số axit amin, bazơ, purin, pyrimdin của axit nucleic. Thiếu axit folic  làm cho sự phân chia tế bào chậm lại, nhấ là những tế bào cơ thể người không có khả năng tổng hợp được axit folic, cơ thể được cung cấp Axit folic qua thức ăn.

Cấu trúc Axit folic gồm 2 thành phần, axit pteroic và axit glutamic, nên axit folic còn gọi là axit pteryol glutamic tan trong nước.

Hấp thu Axit folic được thực hiện ở niêm mạc đường tiêu hoá, hầu hết tá tràng và hỗn tràng, chỉ có aixt pteroyl monoglutamic mới có thể hấp thu được qua niêm mạc.

Trong thức ăn, phân tử axit pteroic liên kết với nhiều phân tử axit glutamic, dưới dạng poglytamat, sự thủy phân hợp chất này ở niêm mạc ruột non nhờ enzym phân chia folic được khử thàng axit tetra – hyđrofolic và một số dẫn chất khác nhau.

Một số chất làm cản trở sự hấp thu axit folic như các thuốc chống co giật, bacbituric thuốc chống sốt rét, thuốc chống thụ thai.

Nguồn gốc Axit folic có nhiều trong thịt gan, thận, trứng, men mốc và hầu hết các rau xanh sẫm màu.

Bảng 6 lượng Axit folic trong một số thức ăn

Thịt                  10 - 50mg/100g

Thận                10 - 30mg/100g

Trứng 10 - 90mg/100g

Gan                 30 - 150mg/100g

Rau xanh        100 - 150mg/100g

Trong sữa mẹ, lượng Axit folic rất ít  (50mg/l) và hầu như không có sữa dê, lượng Axit folic trong thức ăn bị ảnh hưởng lớn do chế biến, đun nấu kéo dài làm giảm hoạt tính của Axit folic, cũng như polyglutamat, Axit folic bị ảnh hưởng lớn của điều kiện bảo quản.

Axit folic bị thải nhiều qua mật, song phần lớn được tái hấp thu lại, phần lớn lượng folic thấy trong phân không thải do vốn folat của cơ thể thải ra, mà do vi khuẩn ở đại tràng tổng hợp và thaỉ ra, Folat cũng được thải qua nước tiểu, nhưng số lượng rất ít.

Nhu cầu Axit folic thay đổi tùy theo tuổi và giai đoạn phát triển.

Theo tổ chức y tế thế giới và FAO nhu cầu Axit folic thay đổi ở lứa tuổi như sau:

Trẻ dưới 1 tuổi          50mg/ngày

Trẻ 1 – 12 tuổi           100mg/ngày

Người lớn                  200mg/ngày

Phụ nữ có thai           400mg/ngày

Phụ nữ cho con bú 300mg/ngày

Nguyên nhân thiếu Axit folic có thể là :

Do cung cấp thiếu, do sai lầm về dinh dưỡng, thiếu dinh dưỡng, chế độ ăn thiếu thốn và không cân bằng.

            Do hấp thu kém vì mắc các bệnh có thương tổn ở ruột, bị hội chứng kém hấp thu, tiêu chảy kéo dài, lao ruột, Axit folic còn bị kém hấp thu do dùng thuốc, như các bacbituric, các thuốc chống co giật khác, thuốc chống sốt rét (malocide), thuốc chống chuyển hoá trong ung thư.

Do nhu cầu tăng, ở giai đoạn phát triển cơ thể nhanh ở  trẻ em, phụ nữ có thai, nhất là ở phụ nữ đẻ nhiều, có thai mau, phụ nữ cho con bú, người bị sốt rét.

Các nguyên nhân trên có thể phối hợp nhau làm tăng nguy cơ thiếu Axit folic và thiếu Axit folic nặng.

Triệu chứng lâm sàng nổi bật nhất là thiếu máu, da xanh, niêm mạc,nhợt, người  bệnh mệt mỏi, chóng mặt, kém hoạt động, lao động yếu, khó thở khi gắng sức.

Kèm theo triệu chứng thiếu máu có những triệu chứng về tiêu hoá, và thần kinh. Về tiêu hoá, người  bệnh chán ăn, hay nôn, tiêu chảu, viêm miệng, viêm lưỡi, mất gai lưỡi gan to, có những rối loạn về thần kinh nhẹ, như mệt mỏi, run tay chân, chóng mặt, tăng trương lực cơ.

Đối với phụ nữ có thai bị thiếu máu Axit folic dễ có nguy cơ đẻ non, cân nặng của trẻ lúc đẻ thấp, dị tật thai, sẩy thai, rau bám bất thường, dễ có tai biến sản khoa.

Về huyết học, có biểu hiện thiếu máu hồng cầu to, huyết cầu tố giảm, hồng cầu không đều, thể tích hồng cầu trung bình trên 100ml kèm theo thiếu máu, hồng cầu lưới, giảm thấp, chứng tỏ giảm khả năng đổi mới hồng cầu, bạch cầu hạt kích thước lớn vàp phân nhiều múi (4 –5 múi) tiểu cầu cũng thường giảm nhẹ. Làm xét nghiệm tủy đồ, thấy nhiều nguyên hồng cầu khổng lồ. phần lớn nguyên hồng cầu khổng lồ trưởng thành không đồng đều giữa nhân và baò tương, nhân chậm trưởng thành trong khi bào tương đã trưởng thành.

Về háo sinh, Axit folic huyết thanh giảm dưới  3mg/ml folat hồng cầu dưới 100mg/ml ngay từ khi bắt  đầu thiếu Axit folic.

Điều trị  thiếu máu thiếu Axit folic bằng cách cho bệnh nhân dùng Axit folic 5mg/ngày thời gian điều trị kéo dài đến khi hết triệu chứng thiếu máu, cũng có thể đảm bảo tái lập lại lượng dự trữ, trong thực tế , điều trị Axit folic không nguy hiểm vì không có nguy cơ tích lũy nên dùng đường uống là đủ, chỉ nên dùng đường tiêm khi có hội chứng giảm hấp thu năng và khi có dùng các chất hoá học được học ức chế hấp thu Axit folic.

Trường hợp có thiếu máu nặng và điều trị bằng Axit folic không kết quả rõ,phải xem xét có thể có thiếu sắt phối hợp, hoặc có nhiễm khuẩn kèm theo, lức đó phải điều trị phối hợp.

            Đồng thời phải điều chỉnh, bổ sung dinh dưỡng thích hợp và điều trị các nguyên nhân gây thiếu Axit folic.

Biện pháp phòng bệnh thiếu máu Axit folic chủ yếu là giáo dục dinh dưỡng , hướng dẫn sử dụng nguồn thức ăn thích hợp, đặc biệt là rau xanh, cũng như các thành phần thức ăn khác, nhất là đối với nhóm có nguy cơ cao, như trẻ nhỏ ở giai đoạn ăn sam, ở phụ nữ có thai, nhất là có thai nhiều lần và mau, phụ nữ cho con bú, người bị sốt rét, các biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng protein – năng lượng cũng hạn chế thiếu máu thiếu Axit folic vì hai bệnh này thường đi đôi với nhau.

Điều trị sớm và triệt để các bệnh mạn tính đường tiêu hoá, giun sán, vì các bệnh này làm giảm hấp thu Axit folic.

Sử dụng thuốc an toàn, nhất là các thuốc làm hạn chế hấp thu Axit folic như bacbituric thuốc chống co giật, thuốc chữa động kinh, thuốc sốt rét, thuốc chống chuyển hoá, thường phải dùng thuốc này kéo dài, có thể cho thêm Axit folic và tăng cường chế độ ăn giàu Axit folic.

Ở những nơi mà tỉ lệ thiếu máu dinh dưỡng cao, để đề phòng thiếu Axit folic cho phụ nữ có thai, người ta bổ sung cho phụ nữ có thai từ 6 tháng trở đi và thời kì cho con bú 500mg Axit folic/ngày

Cùng với 30 – 240mg sắt kết quả phòng ngừa thiếu máu tốt

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình