Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Thế nào là u nguyên bào nuôi?

Theo nghiên cứu của Giáo sư Dương Tử Kỳ:

U nguyên bào nuôi là tên gọi chung của ba loại bệnh có cùng một nguồn gốc từ nguyên bào lá nuôi: chửa trứng, chửa trứng xâm lấn và ung thư nguyên bào nuôi. Đúng hơn nên gọi là bệnh u nguyên bào nuôi của thai nghén; còn loại u nguyên bào nuôi có nguồn gốc từ tế bào mầm  ở buồng trứng và tinh hoàn thì thuộc nhóm bệnh khác về tổ chức sinh bệnh học, về tiên lượng và điều trị. Vì không có ranh giới rõ ràng về mặt hình thái học giữa 3 thể bệnh trên nên việc chẩn đoán phân loại chỉ có thể dựa vào sự phối hợp giữa các dấu hiệu lâm sàng với các kết quả xét nghiệm. X quang, sinh vật học, và mô bệnh học. Về mặt điều trị hoá trị liệu đã cải thiện rõ rệt tiên lượng của những hình thái ác tính. Hiện nay, có thể chữa khỏi bệnh trên 90% số bệnh nhân kể cả những trường hợp đã di căn.

Tần số của bệnh u nguyên bào nuôi thay đổi theo từng nước. Châu Âu và bắc Mĩ có tần số một chủa trứng trên 2000 – 3000 người có thai vàm ột ung thư nguyên bào nuôi trên 15.000 người có thai . Các nước đông nam á, châu phi và mêhicô tỉ lệ bệnh cao hơn: một  chửa trứng trên 120 – 240 người đẻ tại bệnh viện và một ung thư nguyên bào nuôi trên 500 – 1000 người đẻ tại bệnh viện. Việt Nam cũng nằm trong số những nước có tỉ lệ bệnh cao. Theo thống kê của viện bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh thì một chửa trứng trên 120 người có thai và một ung thư nguyên bào nuôi trên 500 – 800 người có thai . Ở những nước có tỉ lệ bệnh cao thì tỉ lệ biến chứng từ chửa trứng thành u ác tính cũng cao và thay đổi từ 10 – 20%.

Nguyên nhân sinh bệnh của u nguyên bào nuôi chưa được chứng minh rõ ràng nhưng có một số yếu tố thuận lợi như tỉ lệ bệnh cao hơn ở lứa tuổi đầu và cuối thời kì hoạt động sinh dục. Mức sống thấp, kém dinh dưỡng cũng là yếu tố quan trọng tỉ lệ bệnh cao. Theo  các công trình nghiên cứu của Teoh (Xinhgapo) thì số lần đẻ hoặc điều kiện khí hậu không làm tăng tỉ lệ bệnh mà chính là các yếu tố  nhiễm khuẩn và dinh dưỡng có liên quan nhiều hơn. Notake, 1963 và okudana, 1967 đã phân lập được loại virut trong tổ chức chửa trứng và ung thư nguyên bào nuôi nhưng các công trình nghiên cứu đó vẫn chưa được chứng minh or4 ràng. Nhiều tác giả đã lưu ý tới sự liên quan giữa tính chất phát triển ác tính và đặt tính xâm nhập tại chỗ hoặc di căn xa của nguyên bào nuôi trong khi có thai bình thường. Mặt khác, nguyên bào nuôi ác tính khi xâm nhập vào cơ thể mẹ, trở thành một kháng nguyên lạ mang tính chất của một u ghép. Những đặc điểm trên có thể giải thích sự quy giảm khả năng miễn dịch chống lại nguyên bào nuôi của cơ thể bệnh nhân.

Nghiên cứu về nhiễm sắc đồ của bệnh nhân chửa trứng thấy có tỉ lệ nhị bội thể cao, còn trong chửa trứng xâm nhập và ung thư nguyên bào nuôi thì phần lớn nhiễm sắc đồ dị bội thể giống như các loại ung thư khác. Điều đặc biệt là phần lớn thể nhiễm sắc giới của chửa trứng là nhiễm sắc giới nữ.

Đặc điểm giải phẫu bệnh: Theo giả thuyết của Hertig và Sheldom về đặc điểm giải phẫu bệnh thì nguyên bào nuôi phát triển liên tục qua các giai đoạn xen lẽ lẫn nhau từ chửa trứng vi thể - chửa trứng chuyển tiếp đến chửa trứng thật sự - chửa trứng xâm nhập và ung thư nguyên bào nuôi. Bagshawe, Benirschke và Driscoll căn cứ vào những đặc điểm tổ chức y học và it1nh chất phát triển bất thường của Bệnh chửa trứng đã xếp nó là một loại u ác tính hoặc có tiềm năng ác tính nhưng Không xếp vào nhóm bệnh ung thư. Ngày nay Hiệp hội quốc tế chống ung thư đã Dựa vào những tiêu chuẩn hình thái học để xếp vào 3 loại.

Chửa trứng gồm loại không xâm nhập và loại xâm nhập

Ung thư nguyên bào nuôi

Loại chẩn đoán hình thái học không chắc chắn

Chửa trứng lành tính, không xâm  nhập

Về đại thể; các gai rau biến thành các túi trứng, dính nhau như chùm nho, kích thước các nang trứng từ vào milimét đến vài centimét thường không có khoan ối và bào thai, bên cạnh những chùm nang trứng có các cục máu cũ đen hoặc máu đỏ mới. Khối chửa trứng to từ vài mililit đến 1000 mililit làm tử cung căng dãn, mềm. Hai trứng thường to tạo thành những nang hoàng tuyến, trên mặt buồng trứng có những nang bọc noãn căng phồng. Sau sẩy trứng, các nang đó sẽ tự tiêu đi.

Về vi thể, các nang trứng phù, ứ nước, mất hết trục liên kết và không có mạch máu. Thành nang trứng bao bọc bởi các lớp nguyên bào nuôi quá sản. Qua nghiên cứu những trường hợp sẩy thai 3 tháng đầu, người ta thấy có ít nhất có trên 1/3 trường hợp có phù gai rau, các trục liên kết vô mạch giống nhưng chửa trứng vi thể nhưng không có sự hoá sản nguyên bào nuôi, nghiên cứu nhiễm sắc thể đồ  của bệnh phẩm sẩy thai và chửa trứng Buoé (1967 -73) nhận thấy trong sẩy thai, khoảng 2/3 trường hợp có sai lạc thể nhiễm sắc thể (tam bội thể, tứ bội thể, ba bội thể sắc E và C) và sự phân bố nhiễm sắc giới bình thường không có gì đặc biệt. Ngược lại, trong chửa trứng thì không có sự sai lac thể nhiễm sắc thường, nhưng ¾ trường hợp mang thể nhiễm sắc giới nữ.

Chửa trứng xâm nhập hoặc di căn.

Về đại thể, các nang trứng xâm nhập vào lớp cơ tử cung hoặc lan đến tổ chức xung quanh hố chậu, hoặc có thể di căn đến âm đạo, phổi và các cơ quan khác, hủy loại tổ chức xung quanh tạo nên những ổ chứa các nang trứng và chảy máu. Các nang trứng xâm nhập lạc chổ đó thường phát triển theo hướng tự tiêu, nhưng cũng có thể phát triển thành ung thư nguyên bào nuôi. Hai buồng trứng cũng giống như trong chửa trứng lành tính.

Về vi thể, tổ chức trong ổ xâm nhập gồm những túi trứng vô mạch, bao bọc bởi các lớp nguyên bào nuôi quá sản mạnh, các tế bào Langhans lan tràn, xâm nhập vào các lớp cơ tử cung và vào lòng các mạnh máu, kèm theo những tổ chức hoại tử chảy máu với phản ứng Lympho bào mạnh ở xung quanh. xét nghiệm mô học vi thể tất khó chẩn đoán phân biệt giữa chửa trứng lành tính với chửa trứng xâm nhập nhưng ít nhất ta cũng ghi nhận một đặc điểm ác tính của chửa trứng xâm nhập khi thấy có sự quá sản mạnh các nguyên bào nuôi, bao bọc quanh túi trứng, lớp hợp bào bị phá vở từng mảng đặc biệt lớp tế bào trung gian có khuynh hướng lan tràn thoát khỏi trục liên kết.

Ung thư nguyên bào nuôi

Về đại thể, khởi phát thường ở tử cung đặc biệt vùng đáy và các mạch bên của tử cung tương tứng vùng trứng làm tổ. Nhân ung thư nhỏ hoặc to, có thể một hoặc nhiều nhân, nằm sát niêm mạc tử cung, lòi vào buồng tử cung hoặc nằm sâu trong lớp cơ tử cung. Bờ của khối u không đều dễ chảy máu mật độ mềm màu tím sẫm. Mặt các khối u sẫm màu gồm tổ chức ung thư đầy đặc xen kẽ có những ổ hoại tử chảy máu. Ung thư phát triển ở tử cung làm cho tử cung ti mật độ mềm. Buồng trứng hai bên thường to ra, có những nan nổi gồ lên trên mặt buồng trứng, cũng có những khi hình thành những nan hoàn tuyến. Ung thư nguyên bào nuôi ăn thũng phá vỡ thành mạch và theo đường mạch máu di căn đến âm đạo, phổi, não, gan, thận, lách, ruột, da, w. di căn thường xuất hiện từ 6 –10 tháng sau sẩy trứng nhưng cũng có khi xuất hiện muộn thương tổn đại thể nhân di căn cũng giống như ở tử cung.

Về vi thể, khối ung thư cấu tạo bởi nguyên bào nuôi to tròn, ranh giới rõ, bào tương dầu Glycogen, nhân to tròn, nhiều múi hoặc nhiều nhân sẫm màu. Các tế bào xếp thành từng đám chen lấn tổ chức xung quanh, gây ra ổ hoại tử chảy máu, không còn hình ảnh cấu trúc gai rau. Tuy nhiên, việc chẩn đoán vi thể không phải đơn giản dễ dàng vì nguyên bào nuôi non, đặc biệt là vào thời điểm trứng đang làm tổ ở ngày thứ 12 – 14, cũng có hình ảnh giống các tế bào ung thư vả lại nếu ung thư xâm nhập sâu trong lớp cơ tử cung. Thì ở tổ chức nạo buồng tử cung khó tìm thấy tế bào ung thư. Trong những trường hợp nghi ngờ cần phải xem kỉ về vi thể trên nhiều tiêu bản, và kết hợp với các dấu hiệu lâm sàng X quang, sinh vật để Xát định chẩn đoán.

Đặc điểm sinh vật nội tiết của u nguyên bào nuôi

Ung thư nguyên bào nuôi là loại ung thư ghép từ tổ chức bào thai phát triển trên cơ thể mẹ, rõ ràng nó có liên quan tính kháng nguyên lạ của tế bào ung thư và khả năng miễn dịch của cơ thể mẹ. đã có nhiều công trình nghiên cứu về kháng nguyên HLA và kháng nguyên ABO của những bệnh nhân u nguyên bào nuôi. Bagshawe nhận thấy những bệnh nhân chửa trứng có cùng nhóm máu, ABO với chồng thì ít bị biến chứng ác tính sau khi sẩy trứng. Người có nhóm máu A, tỉ lệ biến chứng cao hơn người có nhóm máu O và những bệnh nhân có nhóm máu AB , nêú bị chửa trứng thì khó tránh khỏi có biến chứng ác tính sau sẫy trứng, nguyên bào nuôi còn có những hoạt động nội tiết, việc theo dõi nội tiết tố của nguyên bào nuôi vào một số nội tiết tố khác có thể giúp cho việc chẩn đoán và tiên lượng bệnh, trong đó có hai nội tiết tố cần chú ý là:

Nội tiết tố HCG (hocmon Chorrionic gonadotrophin) : nguyên bào nuôi trực tiếp bài tiết, HCG. Khi có thai hoặc chửa trứng hoặc ung thư nguyên bào nuôi thì lượng HCG trong huyết thanh và trong nước tiểu sẽ cao hơn mức bình thường. Căn cứ vào lượng HCG ta có thể ước tính số lượng nguyên bào nuôi hoạt động . Theo Bagshawe, cứ 10 đơn vị quốc tế (UI) HCG trong nước tiểu 24 giờ tương đương với 200000 chế tiết và tương đương với khối u 0,1 mm3 . Như vậy 106,UI tương đương 1 x 1010 tế bào chế tiết và khối u tương đương 10cc. lượng HCG đào thải trong nước tiểu cũng tương đương trong huyết thanh. Lượng HCG trong một lít huyết thanh cũng bằng lượng HCG trong một lít nước tiểi 24 giờ. Ta có thể định lượng  HCG bằng các khoảng ứng sinh học nhưng thiếu chính  sát vì nó phụ thuộc vào giống sinh nhau. Từ  năm 1971, vai tu Katis đã dùng kĩ thuật miễn dịch phóng xạ đặc hiệu bêta HCG nhờ vaò việc tạo ra kháng huyết thanh chống bêta HCG (Ria) đây là phương pháp định lượng HCG lí tưởng để theo dõi và chẩn đoán bệnh ung thư nguyên bào nuôi.

Nội tiết tố HCS (hocmon chorionic somatophic) khi bị u nguyên bào nuôi , HCS bài tiết ít hơn HCG, trong chửa trứng lượng HCS trong huyết thanh thấp hơn từ 10 –100 lần so với lượng HCS  phản ánh ngược lại tỉ lệ biệt hoá của tế bào nuôi và chứng minh độ ác tính, định lượng HCS sẽ giúp cho chẩn đoán và tiên lượng bệnh chửa trứng nhưng không có giá trị để theo dõi sẩy trứng , mặc khác, kĩ thuật định lượng HCS phức tạp, không phổ biến nên ít được dùng.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình