Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Thế nào là nguyên bao nuôi ác tính?

Loại chưa có di căn.

U nguyên bào nuôi ác tính chưa có di căn trên lâm sàng, X quang, mô học và HCG biểu hiện bệnh còn khu trú ở tử cung. Nó là biến chứng chửa trứng xâm nhập hoặc ung thư nguyên sau chửa trứng, phần còn lại là sau đẻ thường, sẩy thai hoặc chửa ngoài tử cung. CÁc dấu hiệu lâm sàng xuất hiện sai khi thai nghén vài tuần hoặc sau nhiều năm. Nếu có tiền sử chửa thì các dấu hiệu lâm sàng dễ làm ra gợi nhớ đến biến chứng ác tính nủa u nguyên bào nuôi, nếu chỉ có tiền sử sẩy thai hoặc đẻ non bình thường thì dễ bỏ qua các dấu hiệu lâm sàng và thường chẩn đoán muộn, Dấu hiệu chủ yếu của u nguyên bào nuôi ác tính là rong huyết dai dẳng giống như người loạn kinh. có thể có dấu hiệu đau vùng hạ vị trong trường hợp thương tổn u  đã ăn lan đến phúc mạc vùng tử cung không đều, mật độ tử cung mềm . Khi khám thấy unan buồng trứng một hoặc hai bên buồng thì chỉ có giá trị chẩn đoán nếu nó tồn tại lâu sau sẩy trứng. Với các dấu hiệu lâm sàng như trên, nếu xuất hiện trong tuổi hoạt động sinh dục thì phải nghỉ ngay đến bệnh u nguyên bào ác tính, cần phải định lượng HCG, nạo hút sinh thiết buồng tử cung để chẩn đoán xác định, X quang phổi để tìm hình ảnh di căn.

Các xét nghiệm cận lâm sàng giúp chu chẩn đoán gồm có:

Định lượng HCG là xét nghiệm cần và đủ cho chẩn đoán riêng việc định lượng  HCG cũng đủ cho ta phân biệt u ác tính chỉ là sót trứng. Theo Bagshwe, nếu lượng HCG trên 40.000 Ui/lít sau nạo trứng thì phải nghĩ đến chửa trứng trứng xâm nhập hoặc ung thư nguyên bào nuôi.

Xét nghiệm mô bệnh học: Nếu có dấu hiệu lâm sàng nghi ngờ ệnh ác tính thì có thể nạo hoặc hút sinh thiết buồng tử cung để tìm tế bào u ác tính. Nhưng khi khối u đã ăn sâu vào dưới niêm mạc tử cung hoặc di bào đi xa thì bệnh phẩm sinh thiết không có giá trị chẩn đoán. Theo Elton (1972) chỉ có 20% bệnh phẩm dinh thiết buồng tử cung là có tế bào u ác tính và có giá chẩn đoán. Nếu không thấy tế bào u ác tính thì cũng không thể loại bỏ chẩn đoán.

Chụp X quang : có thể chụp tử cung vòi trứng. Trên phim thấy hình ảnh buồng tử cung dãn to, tử cung hình khuyết, bờ nham nhở, xét nghiệm này tuy có một số giá trị chẩn đoán nhưng có nguy cơ gây lan truyền tế bào ác tính và gây nhiễm khuẩn .

Chụp động mạch chậu có hai điểm lợi. Một mặt nó giúp xác định thương tổn u ác tính ở tử cung hoặc trong vùng hố chậu. Trong trường hợp khối u nằm sâu dưới niêm mạc tử cung hoặc nằm ở vùng hố chậu mà xét nghiệm mô bệnh học trên bệnh phẩm sinh thiết buồng tử cung không thấy thương tổn bệnh lí thì sẽ thấy rõ hình ảnh thương tổn trên phim động mạch chậu, mặt khác, phim động mạch chậu còn có tác dụng theo dõi những biến chuyển của thương tổn khối u trong quá trình điều trị. Hình ảnh điển hình của u ác tính trên phim động mạch chậu là hình thông dò động- tĩnh mạch, hình ảnh mạch máu tăng sinh tạo thành những ổ đọng thuốc bất thường ở vùng khối u ác tính hoặc hình ảnh trung tâm vô mạch ở giữa khối u ác tính (Hình 1 và 2)

Siêu âm: xét nghiệm này chỉ có giá trị loại bỏ hình ảnh có thai thường hoặc chửa trứng tái phát nếu đã có một khoảng thời gian xa sau khi nạo trứng.

Các xét nghiệm khác: Nếu cần thiết cần kiểm tra các bộp phận bằng các xét nghiệm như chụp hpổi cắt lớp, xạ hình não, gan; chụp thập tiết niệu , điệm tim, điện não và các xét nghiệm chức năng gan, thận, w. Các hình thái lâm sàng của u ác tính nguyên bào nuôi: Có 2 hình thái lâm sàng cần chú ý là: ung thư nguyên bào nuôi phát hiện muộn. Bình thường bệnh xuất hiện trong vòng 2 – 6 tháng hoặc dưới 2 năm sau nạo trứng. Nêú bệnh xuất hiện sau 2 năm là muộn và những trường hợp đó đều là ung thư nguyên bào nuôi thật sự. Hình thái tự khỏi, theo Park thì có khoảng 10% loại u nguyên bào nuôi ác tính chưa di căn có thể tự khỏi:đặt biệt là loại chửa trứng xâm nhập.

Loại đã có di căn:

Dấu hiệu của u nguyên bào nuôi ác tính đã di căn được biểu hiện bằng lâm sàng. X quang, phải phẫu bệnh và nội tiết, chứng tỏ tổ chức u đã di bào đến các cơ quan khác. Phần lớn là do ung thư nguyên bào nuôi, từ tử cung di căn đến các cơ quan ở xa, nhưng chửa trứng xâm nhập cũng có thể di căn thườnbg khởi phát từ các điểm lắng đọng thành mạch của các nan trứng hoặc tắc mạch các nguyên bào nuôi đã bị ung thư hoá. Theo Everson (1966), khoảng 1% thương tổn di căn của ung thư nguyên bào nuôi có thể tự khỏi . những ổ di căn của chửa trứng xâm nhập có tỉ lệ tự khỏi cao họn nhưng các nguyên bào nuôi của các nang trứng xâm nhập cũng dẽ bị ung thư hoá và trở thành ổ di căn ung thư thật sự.

Di căn phổi: Phổi là co quan nguyên bào nuôi ưa di bào đến và trú ngụ ở đó. Theo Attwood Park (1963) và Schmorl (1893) 43,6% trường hợp chửa trứng có nguyên bào nuôi di chuyển tên phổi mà không có biểu hiện gì bất thường về X quang phổi, những điểm di bào của nguyên bào nuôi ở phổi sẽ tự tiêu sau khi nạo trứng, nhưng cũng có thể lặng lẽ lưu lại sau một thời gian bất định (Snowgrass và pratt đạ gặp trường hợp lưu lại sau 8 năm), rồi từ đó phục hồi tính chất xâm lấn hoặc ung thư hóa do suy giảm khả năng miễn dịch. Triệu chứng di căn phổi biểu hiện ho, khác ra máu, tăng áp lực động mạch phổi, hoặc hội chứng suy hô hấp, X quang phổi thấy có những bóng mờ tròn ở phần trên trường phổi hoặc nhiều nhân di căn tròn hình thả bóng, hoặc hình di căn lan toả khắc trường phổi tạo thành những vết mờ rải rác, tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp di căn phổi đều có thể chẩn đoán bằng phim X quang. Magrat (1973) nghiên cứu 173 trường hợp ung thư nguyên bào nuôi, có 36 trường hợp di căn phổi nhưng chỉ có 80% của 36 trường hợp đó là thấy có hình ảnh di căn trên phim X quang phổi. Một điều cũng cần lưu ý nữa là có trường hợp ung thư nguyên bào nuôi ở tử cung đã được điều trị cắn tử cung, sau này vẫn có khả năng di căn phổi.

Di căn âm đạo: Cũng là một di căn hay gặp của u nguyên bào nuôi. Nhân di căn nổi lên niêm mạc âm đạo, mầu tím sẩm giống như hình ảnh dãn mạch hoặc điểm nhồi máu.

Di căn não: Thường xuất hiện muội, biểu hiệu đầu tiên bằng hội chứng tăng áp lực trong sọ hoặc chảy máu não, màng não, chẩn đoán di căn não phải dựa vào tiền sử bệnh, các hội chứng lâm sàng, các xét nghiệm HCG, soi đáy mắt, điện não đồ, chụp động mạch não hoặc ghi hìnhp hóng xạ nạo

Di căn gan: Dấu hiệu lâm sàng nghèo nàn, chỉ có thể phát hiện bằng xạ hình hoặc chụp động mạch gan. có thể vở nhân di căn gan, gây chảy máu cấp và tử vong nhanh.

Các di căn khác: Ung thư nguyên bào nuôi có thể di căn từ các cơ quan nông ở ngoài da và niêm mạc đến các nội tạng ở sâu, gây chảy máu nội tạng, trường hợp hãn hữu có di căn thai nhi Emery (1952) , over (1954); Mercer (1958), Damen (1961) và nguyễn Vượng (1971) đã phát hiện 5 trường hợp di căn ung thư nguyên bào nuôi vào trẻ sơ sinh, điểm di căn thường khu trú ờ thùy gan trá nơi tiếp nhận máu từ tĩnh mạch rốn hoặc di căn vào phổi. Tát cả những sơ sinh đó đều chết trong vòng 1 tháng

Điều trị

Hiện này việc điều trị bệnh unguyên bào nuôi cơ bản là điều trị nội khoa bằng hoá chất chống ung thư. Lần đầu tiên Li (1956) đã điều trị khỏi bệnh nhân ung thư nguyên bào nuôi đã di căn bằng méthotrexate. Sau đó Hertz và Li ()1961 – 66 đã báo cáo những công trình nghiên cứu méthotrexate (MTX) hoặc actinomycine D (DAC) chữa khỏi 74% bệnh nhân ung thư nguyên bào nuôi dẵ di căn và 93% bệnh nhân không có di căn. Nhờ cải tiến các phương pháp điều trị hoá chất như phương pháp truyền hoá chất vào động mạch tại chổ, phương pháp sử dụng nhiều hoá chất phối hợp hoặc phối hợp hoá chất với phẫu thuật đã đem lại những hiệu quả cao trong điều trị bệnh u nguyên bào nuôi.

Điều trị nôi khoa bằng hoá chất: Kết quả điều trị hoá chất tùy thuộc vào loại hoá chất, liều lượng và phương pháp điều trị đối với từn trường hợp cụ thể, làm sao để có thể có nhiều tế bào bệnh nhạy cảm với loại hoá chất đó và phải luôn chú ý đến nguy cơ gây nhiễm độc cơ thể, suy giảm khả năng miễn dịch hoặc kháng hoá chất. méthotrexate (MTX) hoặc axit amino – 4 – metyl – 10 folic là loại hoá chất chống chuyển hoá tế bào cụ thể là kháng Axit folic. Nó kiềm hãm sự tổng hợp AND và ở chừng mực nhất định nó tổng hợp protein bằng cách tác động vào chuyển hoá tế bào giai đoạn s.MTX kìm hãm men (khử oxy) làm cho Axit folic không hoạt động không chuyển thành axit folinic hoạt động.

Phác đồ điều trị MTX: có 3 cách để đưa MTX vào cơ thể

Phương pháp liêntục: Tiêm bắp hàng ngày liêù o,4mg/kg thể trọng/ngày. Mỗi đợt 5 này, khoảng cách giữa 2 đợt điều trị 7 – 14 ngày. Số đợt điều trị tùy thuộc mức độ chịu thuốc của bệnh nhân dùng 4 đợt.

Phương pháp ngắt quãng: MTX tiêm bắp, liều 0,6mg/kg/thể trọng. Mỗi tuần 2 lần tức là tiêm bắp ngắt quãng 3 –4 ngày, điều trị trong 6 tuần. Nếu có biểu hiện nhiễm độc thuốc thì bỏ qua một lần tiêm hoặc giảm liều mỗi lần tiêm xuống còn một nữa.

Phương pháp tập trung: MTX tiêm bắp 20/40 mg/lần, 8 giờ tiêm một lần trong thời gian 48 giờ, phối hợp với Axit folinic tiêm bắp 10 – 20mg/lần, bắt đầu sau mũi tiêm MTX cuối cùng 8 giờ và cách nhau 6 giờ trong thời gian 48 giờ.

MTX có nguy cơ gây nhiễm độc cơ thể bằng nhiều biểu hiện khác nhau.

Suy giảm hệ tạo máu: Biểu hiện bằng giảm cả 3 lần, tiểu cầu, bạch cầu, hồng cầu dẫn đến suy tủy xương, trong khi điều trị MTX nếu bạch cầu dưới 3000, tiểu cầu dưới 10000 thì phải ngừng điều trị , tai biến giảm tiểu cầu và bạch cầu sảy ra 7 – 10 ngày điều trị. Vì vậy phải theo dõi công thức máu giũa 2 đợt điều trị. Nếu cần phải ngừng thuốc hoá chất truyền máu, chủ yếu bồi phục lượng tiểu cầu và bạch cầu. trong trường hợp giảm bạch cầu kéo dài, có thể dùng corticoide liều nhỏ (5mg prédnisolone/ngày).

Rối loại tiêu hoá. biểu hiện chán ăn, buồn nôn, đau bụng, loét trợt niêm mạc gây chảy máu đường tiêu hoá. Nếu có biểu hiện chảy máu đường tiêu hoá thì phải ngửng thuốc MTX và phải điều trị bằg Axit folinic.

Nhiễm khuẩn do giảm bạch cầu và suy giảm khả năng miễn dịch vì vậy bệnh nhân cần được nằm điều trị ở uồng vệ sinh vô khuẩn tốt để tránh bội nhiễm. Nếu bạch cầu giảm, cần sử dụng kháng sinh.

Các biến chứng khác nhưng rụng tóc, bong da, xạm da, hoặc điếc do chảy máu tai giữa, w. cũng là những biến chứng thường gặp. Actimomycine D (DAC) là loại kháng sinh phân lập từ Streptomyces, nó tác động bằng cách gắn với AND. Phức hợp AND có DAC không còn có tác dụg tổng hợp ARN thông tin và gián tiếp tác dụng kiềm hãm tổng hợp protein. DAC tác dụng ở mọi giai đoạn của vòng chuyển hoá, tế bào và igữ tế bào ở Go.

Phác đồ điều trị: liều dùng 9 –14 mg/kg/ngày, mỗi đợt 5 ngày, số đợt dùng tùy theo mức độ chịu thuốc và tác dụng của thuốc đối với từng bệnh nhân. DAC tiêm tĩnh mạch cửa chậm 5- 10 phút để tránh hoại tử thành mạch. DAC tác dụng chậm hơn và yếu hơn MTX nhưng ít gây độc gan và thận hơn MTX, do đó có thể điều trị thay thế MTX  bệnh nhân có thể được chữa khỏi bằng DAC.

Độc tính của DAC cũng giống như của MTX nhưng biến chứng của DAC thường gặp là những biến chứng ở da và niêm mạc. Việc theo dõi xử lí những biến chứng trong khi điều trị ADC cụng theo một phác đồ trong khi điều trị MTX.

Các hoá chất khác: Ngoài 2 loại hoá chất chủ yếu trên, ta có thể sử dụng phối hợp một số hóa chất khác trong điều trị bệnh u nguyên bào nuôi như 6 –mercaptopurine, vincaleucoblastine, chlorambucil, cyclophosphamide.

Điều trị phẫu thuật: Trước khi có hóa chất thì chủ yếu là điều trị bằng phẫu thuật. Ngày nay, dựa vào điều trị hoá chất với phẫu thuật trong những chỉ định cụ thể.

Lựa chọn phương pháp phẫu thuật.

Cắt tử cung: nhằm mục đích giảm khối lượng tế bào u ác tính để tăng hiệu lực điều trị của thuốc.

Cắt tử cung đơn thuần cũng có thể chữa khỏi quá 5 năm 41% (breqer) trường hợp ung thư nguyên bào nuôi khu trú ở tử cung và dưới 19% trường hợp ung thư nguyên bào nuôi đã di căn. Vecchieti (1967) đã so sánh kết quả điều trị của 2 nhóm bệnh nhân dùng hoá chất đơn thuần và hoá chất phối hợp với phẫu thuật. Kết quả  khỏi hoàn toàn ở nhóm hoá chất đơn thuần là 51,1% (trong số 390 bệnh nhân), ở nhóm hoá chát phối hợp phẫu thuật là 51,3% (trong số 358 bệnh nhân) như vậy, chứng tỏ hoá chất đơn thuần có tác dụng điều trị đối với những trường hợp khu trú ở tử cung và cả những trường hợp u đã di căn . hoá chất vừa có tác dụng chữa bệnh vủa có khả năng điều trị bảo tồn tử cung không cần đến phẫu thuật. Hơn nũa, thao Hertz thì riêng việc cắt tử cung không những không làm giảm tỉ lệ di căn về sau mà bản thân thủ thuật cắt tử cung lại có thể kích thích tế bào u di căn đi xa. phẫu thuật cắt tử cung chỉ có tác dụng loại bỏ tế bào ác tính ở tử cung sau phẫu thuật, phải tiếp tục dùng hoá chất để loại trừ tế bào di căn. Cắt tử cung cũng có tác dụng trong trường hợp khối u nằm sâu trong lớp tử cung, cản trở tác dụng của hoá chất. Tuy nhiên, khuynh hướng hiện nay vẫn là mở rộng điều trị phẫu thuật, kết hợp với hoá chất trưóc và sau phẫu thuật. Nếu u nguyên bào chưa có di căn nhưng bệnh nhân không cần sinh đẻ thì mổ tử cung ngày thứ 3 của liều hoá chất đầu tiên. Sau mổ, điều trị tiếp cùng một loại hoá chất và cùng liều dùng trước khi mổ, phẫu thuật không hề làm tăng tỉ lệ biến chứng của hoá chất. Goldstein và hammond chỉ định cắt tử cung cả cho những bệnh nhân ung thư nguyên bào nuôi đã di căn vì ổ tử cung ở tử cung chịu tác dụng của hoá chất kém hơn ổ tử cung di căn, nhờ cắt tử cing mà có thể giảm liều điều trị hoá chất và tỉ lệ khỏi bệnh cho những trường hợp đã di căn. Mặt khác, có những trường hợp hoá chất đã chữa khỏi thương tổn ung thư di căn nhưng vẫn tồn tại thương tổn ung thư di căn vẫn tồn tại ung thư tử cung phải cắt tử cung mới có thể chữa khỏi hoàn toàn, nhưng có 35% trường hợp ung thư nguyên bào nuôi đã di căn mà không còn thương tổn ung thư ơ tử cung; trong những trường hợp đó không cần thiết phải cắt tử cung, vì vậy cần chụp động mạch chậu hoặc nạo hút sinh thiết buồng tử  cung trước khi băt đầu điều trị hoá chất để tìm thương tổn ung thư ở tử cung.

Cắt buồng trứng không cần thiết vì ung thư nguyên bào nuôi ít khi di căn đến buồng trứng. Nếu các di căn riêng lẻ ở một số phận như âm đạo, phổi, gan, não, w, sẽ có chỉ định phẫu thuật khi hoá chất không còn khả năng điều trị

Điều trị quang tuyến: Theo Dillwrth, kermann và chan, u nguyên bào nuôi kém nhạy cảm với quang tuyến liệu pháp và nó chỉ được dùng trong những trường hợp di căn não và gan, các tác giả Việt Nam thường chỉ định dùng quang tuyến liệu pháp trong những trường hợp u nguyên bào nuôc ác tính tràn ln trong hố chậu hoặc di căn não, gan mà điều trị hoá chất không khỏi

Điều trị miễn dịch. Các phương pháp dùng là:

Gây miễn dịch thụ động bằng cách tiêm kháng huyết thanh HL chống lại bạch cầu của chồng.

Gây miễn dịch chủ động, không đặt hiệu bằng BCG

Gây miễn dịch chủ động, đặt hiệu bằng cách tiêm bạch cầu của chồng  hoặc ghép da của chồng.

Nhưng các phương pháp điều trị miễn dịch đều không đe, lại kết quả rõ ràng.

Chỉ định và phác đồ điều trị bệnh u nguyên bào nuôi phác đồ điều trị chỉ đạt độ chính xác cao khi đánh giá đúng giai đoạn phát triển của bệnh. Năm 1983, goldstein đã đưa ra bảg xếp loại bệnh u nguyên bào nuôi theo từng giai đoạn điều trị như sau:

Độ  1: chửa trứng

A.     Trước nạo trứng

B.     Tuần sau nạo trứng

Độ 2: Trong 8 tuần sau khi nạo trứng, còn sót trứng hoặc có biến chứng ác tính

a.Bệnh nhân cần bảo tồn khả năng sinh đẻ

b.Bệnh nhân không cần bảo tồn khả năng sinh đẻ

Độ 3:  U nguyên bào nuôi ác tính chưa di căn

a.Không có kết quả mô bệnh học của ung thư nguyên bào nuôi

b.Ung thư nguyên bào nuôi rõ ràng

Độ 4 Ung nguyên bào nuôi ác tính đã di căn

a.Không có kết quả mô bệnh học của ung thư nguyên bào nuôi

b.Ung tưh nguyên bào di căn tiên lượng tốt

c.Ung tưh nguyên bào nuôi di căn tiên lượng xấu

căn cứ vào bảng phân loại trên, phác đồ điều trị là:

Độ 1a. Dùng ngay hoá chất dự phòng. Liều lượng: MTX 0,6mg/kg, tiêm bắp tuần 2 lần, đủ 6 lần tiêm trong 3 năm tuần MTX 0,3 0,4mg/kg.ngày tiêm bắp hoặc DAC - 14mg /kg/ngày tiêm tĩnh mạch, trong 5 ngày. Nạo trứng ngày thứ 3 của mũi tiêm đầu tiên. Kết quả dùng hoá chất dự phòng đã làm giảm tỉ lệ biến chứng. Theo Golstein (1972) đã giảm từ 20% xuống 8,3% Tow (1970)

giảm từ 15% xuống 2% . Nhưng trong số những bệnh nhân dùng thuốc dự phòng có thể có trường hợp đã bị biến chứng ác tính ngay khi đang chửa trứng mà không cần chẩn đoán ra, đo đó kết quả trên chưa phản ánh đúng thực chất tác dụng dự phòng của hoá chất. với liều điều trị dự phòng nhỏ có thể làm cho  nguyên bào nuôi có thể dễ bị kháng thuốc và những năm gần đây có những bệnh nhân đa qua sử dụng thuốc dự phòng liều nhỏ, dau bị biến chứng ung thư nguyên bào nuôi phát triển nhanh, kháng thuốc, điều trị khó khăn, Đó là những bằng chứng để nhiều tác giả hiện nay dè dặt với phác đồ điều trị dự phòng.

Độ 1b. trong thời gian 8 tuần sau nạo trứng, theo dõi lượng HCG và những dấu hiệu lâm sàng, không cần điều trị gì. Thái độ xử trí dựa vào những biến chứng chuyển lâm sàng và lượng HCG . Sau nạo 6 tuần lượng HCG trong nước tiểu trên 40.000 UI/24 giờ hoặc sau naọ 10 tuần. lượng HCG trong nước tiểu trên 25.000 UI/24 giờ hoặc sau nạo lượng HCG bắt đầu tăng lên bất thường, kèm theo rong huyết kéo dài hoặc có triệu chứng di căn thì phải điều trị ngay.

Đầu tiên chỉ là dùng hoá chất. Nếu bệnh nhân đã lớn tuổi không cần sinh đẻ tiếp thì nên chỉ định cắt tử cung ngay trong đợt hoá chất đầu tiên và tiếp tục hoá chất sau mổ cho tới khi HCG trở lại bình thường. sau 2 đợt dùng hoá chất ,mà lượng HCg không giảm, đó là biểu hiện của kháng hoá chất, cần thay đổi loại hoá chất và thay đổi phương pháp đưa hoá chất vào cơ thể.

Độ 2 và độ 3: xử lí như độ 1b.

Nếu kết quả mô bệnh học trả lời rõ ràng bệnh ung thư nguyên bào nuôi ở tử cung chưa di căn tức là độ 3, cần dùng hoá chất liều cao và chọn đường dùng có hiệu quả nhất, phương pháp truyền hoá chất vào động mạch chậu sẽ giảm được nửa liều bình thường và tăng hiệu lực của thuốc. Với MTX thì truyền liên tục 10 – 15mg/ 24 giờ. với DAC thì tiêm ngắt quãng 0,2mg cách nhau 2 giờ, nhưng truyền động mạch có những tai biến  như co thắt động, tắc mạch, chảy máu, viêm nhiễm tại chổ hoặc dị ứng thuốc, nếu bệnh nhân không cần sinh đẻ thì nên chỉ định cắt tử cung phối hợp với hoá chất.

Độ 4a và 4b: Là loại u nguyên bào nuôi ác tính đã di căn nhưng tiên lượng tốt. Điều trị bằng MTX hoặc DAC, không cần điều trị phối hợp. Sau 2 đợt điều trị mà HCG không giảm hoặc sau 4 –5 đợt điều trị mà HCG vẫn không trở lại mức bình thường hoặc có xuất hiện di căn mới thì phải thay đổi hoá chất, liều dùng và phương pháp tiêm truyền. Tong trường hợp vẫn tồn tại ổ thương tổn ác tính ở tử cung tức là có kháng thuốc thì bắt buộc cắt tử cung để giảm nhẹ liều điều trị hoá chất.

Độ 4c: Là loại ung thư nguyên bào nuôi đã di căn và tiêm lượng xấu. Dựa vào các yếu tố sau đây để xếp tiên lượng xấu: bệnh xuất hiện sau chữa đẻ quá 4 tháng – lượng HCG trước khi điều trị vượt quá 100.000 UI/lít nước tiểu 24 giờ - di căn não hoặc gan hoặc di căn gây tắc nghẽn đường bài niệu. Với tiên lượng xấu thì dùng phác đồ điều trị phối hợp 3 loại hoá chất. có thể có nhiều công thức nhưng phổ biến là dùng 2 công thức:

Công thức 1: 15mg MTX tiêm bắp;

0,3mg DAC tiêm tĩnh mạch

10mg chlorambucil uống

Công thức 2: 15mg MTX tiêm bắp;

0,5mg DAC tiêm tĩnh mạch ;

3mg cyclophosphamide uống.

mỗi loại thuốc dùng hàng ngày trong thời gian 5 ngày liên tục, có thời gian xen kẽ giữa 2 đợt điều trị 10 –21 ngày vì độc tính cao của phương pháp điều trị phối hợp nên chỉ dùng 2 hoặc 3 đợt phối hợp sau đó dùng tiếp DAC với liều 0,5mg/ngày trong thời gian 5 ngày, nghỉ ngắt quãng 7 –10 ngày, dùng cho tới khi lượng HCG xuống tới mức bình thường. Trường hợp di căn não hoặc gan có thể phối hợp hoá chất với tia xạ liều 2.000 đến 3.000 rad. Có thể dùng phương pháp truyền hoá chất động mạch gan hoặc cắt phân thùy gan thay thế tia xạ.

Kết quả điều trị theo thống kê của Goldstein (1978) đã điều trị 247 bệnh nhân u nguyên bào nuôi trong đó có 160 chửa trứng không có biến chứng và 87 chửa trứng có biến chứng ác tính. Tất cả các trường hợp chửa trứng lành tính  và chửa trứng có biến chứng ác tính tiên lượng tốt đều khỏi hoàn toàn. Chỉ những trường hợp biến chứng ác tính tiên lượng xấu, tỉ lệ khỏi bệnh là 23%. Theo thống kê của Hammond (1983) đã điều trị 91 bệnh nhân u nguyên bào nuôi ác tính cí di căn, kết quả khỏi 98% cho loại tiên lượng tốt, 47% cho loại

tiên lượng xấu.

Những trường hợp điều trị bảo tồn bằng hoá chất nếu bệnh đã khỏi hoàn toàn sau 1 năm đều có thể có thai và sinh đẻ bình thường không gây những dị dạng bất thường trên thai. Hammond và Herts (1967) đã theo dõi 27 trường hợp có thai trong số 58 bệnh nhân được điều trị bằng MTX đã khỏi bệnh hoàn toàn 1 năm thì thấy 22 trẻ sinh đủ tháng không có dị tật tim bẩm sinh. Không có bệnh nhân nào tái phát bệnh u nguyên bào nuôi. Ishizuka (1972) và Vanthiel (1976) cũng không thấy trường hợp nào tái phát bệnh ở lần có thai sau khi đã điều trị nghén lần sau và tình trạng thai nghén cũng không kích thích tái phát bệnh u nguyên bào nuôi.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình