Theo nghiên cứu của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khánh Dư:
Để hiểu thế nào là viêm màng tim cấp tính trước hết ta phải biết vị trí giải phẫu của màng ngoài tim theo một sơ đồ đơn giản sau đây (Hình 1)
Viêm màng ngoài tim cấp tính xảy ra khi có một tác nhân gây bệnh xâm nhập đột ngột vào màng ngoài tim. Những nguyên nhân gây ra viêm màng ngoài tim cấp tính có thể là nhiễm trùng, ung thư phổi, dị ứng, w.
Nhiễm trùng có thể là: Vết thương màng ngoài tim hoặc vết mổ nhiễm trùng ở màng ngoài tim. Vi khuẩn xâm nhập vào màng ngoài tim theo đường máu hay đường bạch mạch. Vi khuẩn lan tới màng ngoài tim từ các cơ quan lân cận như mủ màng phổi, viêm tẩy mủ trung thất, apxe gan trái vỡ qua cơ hoành vào khoang màng ngoài tim, apxe phổi vở vào khoang màng ngoài tim, w. viêm màng ngoài tim cấp do cấp thấp. Viêm màng ngoài tim cấp do siêu vi khuẩn. Lao cấp tính màng ngoài tim. Ung thư phổi, ung thư thực quản bị thoái hoá vở vào khoang màng ngoài tim. Nguyên nhân này rất hiếm gặp.
Viêm màng ngoài tim cấp tính có thể di dị ứng. Viêm màng ngoài tim cấp tính chưa rõ nguyên nhân do Hedges đề xuất năm 1854. Carmichael (1951) cho rằng không có viêm màng ngoài tim cấp tính không rõ nguyên nhân mà bệnh này có thể di vi khuẩn, vi khuẩn lao hoặc do dị ứng gây nên. Viêm màng ngoài tim cấp tính có mủ là một trong những bệnh nặng mà trước đây người ta chỉ điều trị bảo tồn bằng chọc hút hoặc đặt ống dẫn lưu mủ tư2 trong khoang màng tim ra với tỉ lệ tử vong khá cao(41% theo Boyle; 75% theo Zucker trong viêm mủ màng ngoài tim ở trẻ em, 30% theo Ben Ismall, w.)
Những triệu chứng của viêm màng ngoài tim cấp tính là đau ở sau xương ức, sốt 39 – 40oC , khó thở, tim đập nhanh, da và niêm mạc hơi t1im, bệnh nhân mệt, yếu, phải giữ ở tư thế nửa ngồi nữa nằm, tựa tay vào thành gường cho đở khó thở. Khám bệnh nhân thấy nổi bất các dấu hiệu sau đây: không nhìn thấy và không sờ thấy mỏm tim đập, gõ thấy vùng đục trước tim rộng, nghe thấy tiếng tim mờ và đập ở xa xâm. Chụp X quang lồng ngực thấy tim to toàn bộ, có hình tam giác hay hình quả cầu, soi X quang thấy tim đập yếu ớt, siêu âm tim có thể thấy khoảng trống rộng khoang màng ngoài tim, để chẩn đoán chính xác nguyên nhân sinh bệnh ta ap1 dụng phương pháp chọc thăm dò khoang màng ngoài tim qau điểm Marfan (điểm cạnh mõm ức bến trái) hướng mũi kim lên trên, sang trái và ra sau khoảng 30o, hút chất dịch từ khoang màng tim ra (nước màng chanh, máu, nước máu, mủ) để làm xét nghiệm (soi tươi dưới kính hiểm vi, cấy dịch và làm kháng sinh đồ, w ) nhờ áp dụng phương pháp chọc hút khoang màng ngoài tim ta đã xác định được nguyên nhân sinh bệnh và đề xuất ra phương pháp điều trị thích hợp, đặc iệu, đem lại kết quả tốt cho người bệnh. Hạ được tỉ lệ tử vong sau mổ đến mức tối thiểu (từ 20 xuống chì còn 15% và thấp hơn nữa.)
Về điều trị viêm màng ngoài tim cấp tính, đại đa số các thầy thuốc nội khoa chọn phương pháp chọc hút khoang màng ngoài tim hoặc mổ dẫn lưu màng ngoài tim kết hợp với dùng thuốc kháng sinh mạnh có tác dụng rộng tư 1977, tại bệnh viện chợ rẫy Thành phố hồ Chí Minh, đã thay đổi chiến thuật và kĩ thuật điều trị ngoại khoa bệnh viêm màng tim cấp tính như sau:
Đối với các trường hợp đặc biệt nặng với những triệu chứng chèn ép tim rõ rệt, các tác giả mổ màng ngoài tim tối thiểu để dẫn lưu dịch viêm từ trong khoang màng ngoài tim ra, dùng kháng sinh tại chổ và toàn thể kết hợp với điều trị nâng cao thể trạng trong thời gian 7 - 10 ngày, sau đó chỉ định mổ sớm: mổ lồng ngực bên trái, cắt bỏ rộng màng ngoài tim torng khi nó chưa kịp dính với màng trên tim để chuyển thành viêm màng ngoài tim co thắt dày dính.
Đối với các trường hợp nặng, nhưng tình trạng chung của bệnh nhân còn khá, các tác giả chỉ định mổ sớm – cắt bỏ rộng màng ngoài tim trong một thì mổ, bỏ qua mổ màng ngoài tim tối thiểu hay còn gọi là mở cửa sổ màng ngoài tim. Bằng kĩ thuật và chiến thuật trị liệu ngoại khoa kể trên, các tác giả đã nâng cao tỉ lệ kết quả tốt sau mổ trên 70 – 80% và hạ ít tỉ lệ tử vong sau mổ xuống. |