Ít có thứ vũ khí chống bệnh tật nào lại tạo ra được sự hứng khởi và nổi tiếng mau lẹ như “penicilin”. Nó bất thình lình được cả thế giới công nhận như là một “phép lạ” xảy ra ngay trước mắt.
Thế nhưng phép lạ ấy lại do con người, một thiên tài, đã làm trong phòng thí nghiệm. Đồng thời đó cũng là phép lạ của chính tự nhiên. Penicilin là cái tên người ta đã đặt cho một chất có khả năng kỳ diệu chống lại các vi khuẩn. Penicilin được chế tạo từ vài loại “nấm”. Đó là loại kháng sinh. Có nghĩa là được chế tạo từ các sinh vật hữu cơ và có khả năng chống lại những vi trùng và các sinh vật li ti có hại khác.
Có điều khá kỳ lạ là cái ý tưởng dùng kháng sinh chẳng phải là ý tưởng mới mẻ gì. Kể từ năm 1877, tác động của kháng sinh đã được nhà bác nọ người Pháp tên là Louis Pasteur khám phá. Và nhiều chất kháng sinh đã được sử dụng để điều trị sự nhiễm trùng. Thật ra “nấm”, “mốc” cũng đã được dùng để trị sự nhiễm trùng và việc sản xuất “nấm, mốc” chống nhiễm trùng cũng đã được thực hiện từ nhiều năm trước đó. Nhưng lúc đó, chẳng ai biết nó là cái gì.
Đến năm 1928, ngài Alexander Fleming là người đầu tiên đã mô tả và đặt tên cho chất kỳ diệu ấy là “penicilin”. Nó được phát hiện một cách thật bất ngờ và tình cờ. Nhưng nó đã được mau lẹ nhận được sự quan tâm chăm chú khảo sát, nghiên cứu. Người ta nhận thấy một vài loại “nấm” sản xuất ra được một chất có khả năng mạnh mẽ tiêu diệt được nhiều vi trùng có hại cho con người mà không làm hại đến loại vi trùng “lành”.
Có nhiều phát minh quan trọng khác liên quan đến penicilin được thực hiện, chẳng hạn, nó diệt vi trùng gây bệnh mà không tác hại các tế bào của con người. Điều này rất quan trọng vì không thiếu gì loại khử trùng nhưng đồng thời cũng tác hại đến tế bào.
Penicilin tác động “có lựa chọn” đối tượng, có nghĩa là nó chỉ là “thần chết” đối với một vài loài vi trùng nhưng lại “hiền khô” đối với những loại khác hoặc nếu có tác hại cho các loại khác thì cũng chỉ sơ sơ, không nghiêm trọng. Tuy nhiên, nó không phải là thần dược trị bách bệnh như nhiều người lầm tưởng. Penicilin có ba tác dụng đối với vi trùng. Trước hết, nó ngăn cản sự tăng trưởng của vi trùng. Thứ hai, nó sát hại vi trùng. Thứ ba, trong vài trường hợp, nó phân rã vi trùng |