Còn gọi là cây quả giun, quả nấc, sử quân tử.
Tên khoa học Quisqualis indica L.
Thuộc họ bàng Combretaceae.
Ta dùng quả chín (Fructus Quisqualis) hay nhân chín (Semen Quisqualis) phơi hoặc sấy khô của cây sử quân tử.
A. Mô tả cây
Sử quân tử là một loại dây leo, hay nói cho đúng là loại cây mọc tựa vào cây khác hoặc hàng rào. Lá mọc đối, đơn, nguyên, hình trứng, đầu nhọn, phía cuống hơi tròn hình tim, dài 7-9cm, rộng 4-5cm, cuống ngắn. Hoa hình ống, lúc đầu màu trắng, sau chuyển hồng và đỏ, mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc đầu cành, dài 4-10cm. Quả khô, hình trứng nhọn, dài 35mm, dày 20mm, có 5 cạnh dọc hình 3 cạnh, chứa một hạt dài phía dưới hơi rộng, phía đầu hơi mỏng, có 5 đường sống chạy dọc.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây sử quân tử mọc hoang ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miền Trung nước ta. Một số nơi người ta hái hoa hoặc đào rễ về làm thuốc.
Trồng cây sử quân tử không yêu cầu diện tích rộng.
Trồng bằng hạt: Chọn các quả đẫy và chắc, gieo vào mùa xuân (tháng 2-3) hoặc mùa thu, sau khi thu hoạch quả. Trước khi gieo, ngâm quả vào nước nóng 450C trong một ngày. Mỗi hốc gieo hai ba quả. Sau 35-40 ngày quả nẩy mầm. Cây con cao độ 15-20cm, đem đánh trồng vào nơi cố định.
Trồng một lần sẽ thu hoạch mãi. Càng về sau, thu hoạch càng nhiều.
Trồng bằng cành: Chọn những cành to khỏe, cắt thành từng khúc dài 25-30cm. Cắm nghiêng, đầu ngọn nhô khỏi mặt đất độ 3-5cm. Sau khoảng 10 ngày mầm đã mọc dài. Nên trồng vào mùa xuân.
Trồng bằng cành, sau 2 năm đã có thể thu hoạch được.
C. Công dụng và liều dùng
Sử quân tử là một vị thuốc được dùng từ lâu đời. Sách địa chí (cổ) chép: Quách sứ quân ở Phiên Châu chữa trẻ em phần nhiều chỉ dùng một vị này, từ đó về sau các nhà làm thuốc mới gọi là sử quân tử.
Tính chất của nó theo các sách cổ như sau: Vị ngọt, tính ôn, không có độc, vào hai kinh tỳ và vị, chữa 5 chứng cam của trẻ em, tiểu tiện đục, sát trùng và chữa khỏi chứng tả lỵ, còn làm khỏe tỳ vị, chữa hết thảy các bệnh lở, ngứa của trẻ em (Lý Thời Trân - Bản thảo cương mục).
Trên thực tế, sử quân tử thường được dùng chữa giun đũa với liều 3-5 nhân cho trẻ em, 10 nhân cho người lớn, tối đa 20g, 3 giờ sau khi uống, nên uống một liều thuốc tẩy, có thể dùng riêng hay phối hợp với những vị thuốc giun khác như binh lang (hạt cau) và thuốc tẩy (đại hoàng).
Còn được dùng dưới dạng thuốc sắc ngậm chữa đau nhức răng, ngày ngậm nhiều lần không kể liều lượng.
Ðơn thuốc có sử quân tử
Thuốc cam giun giúp sự tiêu hóa (Kinh nghiệm của tác giả): Nhân sử quân tử sao cho vàng thơm và giòn, tán nhỏ 2 phần, thóc ngâm cho nảy mầm rồi sao vàng nửa phần. Tất cả tán nhỏ, trộn đều. Sấy khô. Có thể thêm đường vào đóng thành bánh. Dùng cho trẻ em bị giun, gầy còm, kém ăn, ăn không tiêu, da vàng, miệng hay chảy nước giãi. Ngày uống 1-2 thìa cà phê bột này, hòa vào nước cháo hay mật ong. Trẻ em thích ăn bột vì thơm ngon. Ăn nhiều quá có hiện tượng nấc nhưng chóng hết.
Chữa đau nhức răng (kinh nghiệm cổ, tác giả đã xác minh lại): Sử quân tử (cả quả) đập nát 10 quả, thêm vào 1 bát nước đun sôi và giữ sôi 15 phút. Ngậm trong ngày. Sau khi ngậm có thể nuốt nước này. Nhiều khi vừa khỏi đau răng, vừa ra giun.
Chữa trẻ em hư thũng, mặt chân sưng phù (Giản tiện phương - tài liệu cổ): Sử quân tử 40g đập bỏ vỏ quả, lấy nhân tẩm với mật nướng hay sao cho khô, tán bột, mỗi ngày uống 4g hòa với nước cơm hay nước cháo.
Thuốc cam Thác nghè (Thanh Hóa): Sử quân tử 3 phần, bạch chỉ 5 phần, hoàng cầm 2 phần, sử quân tử sao vàng, bạch chỉ và hoàng cầm không sao. Tất cả tán nhỏ. Ngày uống 1-5 thìa cà phê, chia 3 lần uống |