Còn gọi là tạo giáp, tạo giác, chưa nha tạo giác, man khét (Campuchia). Tên khoa học Gleditschia australis Hemsl. (Gleditschia sinensis Lamk., Mimosa fera Lour.).
Thuộc họ Vang Caesalpiniaceae.
Cây bồ kết cung cấp cho ta những vị thuốc sau đây:
1. Quả bồ kết tạo giác (Fructus Gleditschiae) là quả bồ kết chín khô.
2. Hạt bồ kết tạo giác tử (Semen Gleditschiae) là hạt lấy ở quả bồ kết chín đã phơi hay sấy khô.
3. Gai bồ kết tạo thích, tạo giác thích, thiên đình, tạo trâm (Spina Gleditschiae) là gai hái ở thân cây bồ kết, đem về phơi hay sấy khô hoặc thái mỏng rồi phơi hay sấy khô.
Mô tả cây
Bồ kết là một cây to cao chừng 6-8m, trên thân có những túp gai có phân nhánh, dài tới 10-15cm. Lá kép lông chim, cuống chung có lông và rãnh dọc, 6 đến 8 đôi lá chét, hình trứng dài, dài trung bình 25mm, rộng 15mm. Hoa màu trắng khác gốc hay tạp tính, mọc thành chùm hình bông. Quả giáp, dài 1-12cm, rộng 15-20cm, hơi cong hình lưỡi liềm hay thẳng, quả mỏng nhưng ở những nơi có hạt thì nổi phình lên, trên mặt quả có phủ lớp phấn màu xanh nhạt. Trong quả có 10-12 hạt dài 10mm, rộng 7mm, dày 4mm, màu vàng nâu nhạt, quanh hạt là một chất cơm màu vàng nhạt. Mùa bồ kết: Tháng 10-11.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây bồ kết mọc hoang và được trồng tại nhiều tỉnh miền Bắc nước ta. Còn thấy mọc tại các tỉnh miền Nam Trung Quốc. Riêng đảo Cát Bà (Hải Phòng) có trồng rất nhiều.
Vào tháng 10-11, quả chín, hái về phơi hay sấy khô. Khi mới hái quả có màu xanh hay hơi vàng, phơi và để lâu có màu đen bóng.
Gai bồ kết có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào các tháng 9 đến tháng 3 năm sau, hái về phơi khô hoặc nhân lúc gai còn đang tươi, thái mỏng rồi mới phơi hay sấy khô.
Công dụng và liều dùng
Nước bồ kết dùng gội đầu, giặt quần áo lụa, len có màu không bị ố. Ngoài việc dùng bồ kết làm nguyên liệu để chế chất saponin, bồ kết còn được dùng trong Đông y để chữa nhiều bệnh khác nhau.
Bồ kết: Theo các tài liệu cổ thì bồ kết (bỏ hạt hoặc đốt ra than, hoặc tán nhỏ làm thành viên hay thuốc bột) có vị cay, mặn, tính ôn, hơi độc, vào 2 kinh phế và đại tràng. Có năng lực thông khiếu, tiêu đờm, sát trùng, làm cho hắt hơi, dùng chủ yếu chữa trung phong cấm khẩu phong tê, tiêu đồ ăn, đờm suyễn thũng, sáng mắt, ích tinh.
Liều dùng hàng ngày 0,5 đến 1g dưới dạng thuốc bột, hay đốt ra than mà dùng, hoặc thuốc sắc.
Hạt bồ kết: Trong sách cổ nói hạt bồ kết vị cay, tính ôn, không độc, có tác dụng thông đại tiện, bí kết, chữa mụn nhọt, dùng với liều 5-10g dưới dạng thuốc sắc.
Đơn thuốc có bồ kết dùng trong nhân dân
Thuốc chữa ho:
Bồ kết 1g, quế chi 1g, đại táo (táo đen) 4g, cam thảo 2g, sinh khương 1g, nước 600ml; sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa nhức răng, sâu răng:
Quả bồ kết tán nhỏ, đắp vào chân răng, hễ chảy nước dãi ra thì nhổ đi.
Chữa trẻ con chốc đầu, rụng tóc:
Bồ kết đốt ra than, tán nhỏ, rửa sạch vết chốc rồi đắp than bồ kết lên.
Chữa đi lỵ lâu ngày:
Hạt bồ kết sao vàng, tán nhỏ, dùng hồ nếp viên bằng hạt ngô. Ngày dùng 10-20 viên, dùng nước chè đặc mà chiêu thuốc (nên uống vào buổi sáng sớm để khỏi mất ngủ).
Chữa phụ nữ sưng vú:
Gai bồ kết thiêu tồn tính 40g, bạng phấn 4g. Hai vị tán nhỏ, trộn đều, mỗi lần uống 4g bột này |