Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Thuốc nam
Tôi nghe nói mã tiền là một vị thuốc có tính độc nhưng có thể chữa được nhiều bệnh như ghẻ, lở loét, tê thấp... Xin cho biết rõ hơn về công dụng và cách dùng của mã tiền?

Mã tiền còn gọi là củ chi, sleng thom, sleng touch (Campuchia), kok tuong ka (Lào), vomiquier fausse angusture, mắc sèn sứ (Thổ), co bên kho (Thái).

Tên khoa học Strychnos nux vomica L.

Thuộc họ Mã tiền Loganiaceae.

Tên mã tiền dùng để chỉ nhiều cây khác nhau thuộc chi Strychnos cho những hạt giống như chiếc khuy áo lớn và có chứa những alkaloid có tác dụng mạnh, chủ yếu là strycnin và bruxin. Có cây là cây đứng, có cây là dây leo. Có khi cùng một loài nhưng nếu khai thác hạt người ta gọi là cây mã tiền, còn khai thác vỏ người ta lại gọi là cây hoàng nàn.

Mô tả cây

Như trên đã nói, ở nước ta hiện đang khai thác ít nhất hai loài mã tiền.

1. Cây mã tiền - Strychnos nux vomica L. là một cây nhỡ, mọc thẳng đứng có vỏ xám, cây non có gai. Lá mọc đối, có lá kèm, cuống ngắn, phiến lá hình bầu dục, hai đầu hơi nhọn. Hoa nhỏ, màu hồng, hợp thành xim hình tán đều, lưỡng tính, tràng và đài có 5 cánh.

2. Các loại mã tiền được khai thác ở miền Bắc nước ta hầu hết đều là dây leo, tên khoa học chưa được xác định chắc chắn, chỉ dựa vào hàm lượng alkaloid trong hạt mà khai thác và chỉ mới biết đây là một loài Strychmos sp. Vỏ một loài dây leo này được khai thác với tên hoàng nàn. Mã tiền dây leo có đường kính thân tới 10-15cm, chiều dài thân có thể tới 30-40m.

Thu hái và chế biến

Thường quả chín rơi xuống đất, hạt tung ra ngoài, người ta nhặt về phơi khô. Khi dùng thái mỏng, sấy lại lần nữa rồi tán nhỏ.

Trong nhân dân ta, mã tiền chỉ được sử dụng sau khi chế biến theo mấy cách sau đây:

1. Ngâm hạt trong nước vo gạo một ngày đêm cho tới khi mềm, lấy ra bóc vỏ, thái mỏng, sấy khô tán nhỏ.

2. Cho hạt mã tiền vào dầu vừng đun sôi cho tới khi hạt mã tiền nổi lên thì vớt ra ngay (nếu chậm, hạt sẽ bị cháy đen, mất tác dụng). Thái nhỏ, sấy khô mà dùng.

3. Ngâm hạt mã tiền trong nước thường hay nước vo gạo cho tới khi mềm. Lấy ra bóc vỏ và lông để riêng, nhân để riêng. Sao vỏ và lông riêng, nhân riêng, sau đó tán nhỏ từng thứ. Phương pháp này thường dùng chữa bệnh chó dại.

Công dụng và liều dùng

Mã tiền được dùng cả trong Đông và Tây y. Tây y dùng làm thuốc kích thích thần kinh trung ương, tăng phản xạ của tủy, tăng cường kiện và dinh dưỡng của cơ, dùng chữa tê liệt, tim bị giãn, cơ tim mệt, giảm cường kiện của ruột, đái dầm và yếu bộ phận sinh dục (strycnin làm tinh trùng được tống ra mạnh).

Làm nguyên liệu chiết strycnin.

Dạng dùng trong Đông y:

Trong Đông y, mã tiền được dùng chữa ghẻ và những bệnh ngoài da khó chữa: Tán bột (sao vàng tán nhỏ), trộn với dầu vừng bôi lên nơi ghẻ, lở loét. Dùng trong, mã tiền được xem như một vị thuốc chữa tê thấp, bại liệt, bán thân bất toại, chó dại cắn. Mã tiền dùng trong Đông y phải chế biến như phần phân bố thu hái và chế biến đã giới thiệu. Mỗi ngày uống khoảng 0,1 đến 0,03g%.

Đơn thuốc có mã tiền dùng trong nhân dân

Thuốc phong bà Giằng chữa tê thấp, đau nhức, sưng khớp (Thanh Hóa):

Bột mã tiền chế 50g, bột hương phụ tử chế 13g, bột mộc hương 8g, bột địa liền 6g, bột thương truật 20g, bột quế chi 3g, tá dược vừa đủ hoàn 1.000 viên. Mỗi ngày uống 4 viên, tối đa 6-8 viên. Theo hướng dẫn, uống khi nào thấy giật giật mới có kết quả. Một đợt uống 50 viên thì lại nghỉ.

Kinh nghiệm nhân dân chữa tê thấp, đau nhức, sưng khớp.

Cần chú ý thuốc có độc nên việc sử dụng phải hết sức thận trọng

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình