Trên thị trường có nhiều loại mộc hương, nhưng sau đây là 2 vị chính:
1. Quảng mộc hương, còn gọi là vân mộc hương (Radix Saussureae lappae), là rễ phơi hay sấy khô của cây vân mộc hương (Saussureae lappae Clarke) thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
2. Thổ mộc hương, còn gọi là hoàng hoa thái (Radix Helenii), là rễ phơi hay sấy khô của cây thổ mộc hương (Inula helenium L.) cũng thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Ngoài ra còn một số cây khác cũng cho vị mộc hương cùng thuộc họ Cúc như vị xuyên mộc hương mà có tác giả xác định là Inula racemosa Hook. f., nhưng có tác giả lại xác định là Jurinea aff. souliei Franch.
Ta đã di thực được 2 loài quảng mộc hương và thổ mộc hương.
Mô tả cây
Cây quảng mộc hương hay vân mộc hương là một cây sống lâu năm, rễ to mẫm, đường kính có thể đạt tới hơn 5cm, vỏ ngoài màu nâu nhạt. Phía gốc có hình 3 cạnh tròn, dài 12-30cm, rộng 6-15cm, cuống dài 20-30cm có dìa, mép lá nguyên và hơi lượn sóng, hai mặt đều có lông, mặt dưới nhiều hơn. Trên thân cũng có lá hình 3 cạnh, nhưng càng lên trên kích thước lá càng nhỏ dần, mép có răng cưa; Cuống lá càng lên cao càng ngắn lại, phía trên cùng lá gần như không có cuống hay có khi như ôm lấy thân cây. Hoa hình đầu, màu lam tím. Quả bế, hơi dẹt và cong queo, màu nâu nhạt, có những đốm màu tím. Mùa hoa vào các tháng 7-9, mùa quả vào tháng 8-10. Cây thổ mộc hương cũng là một cây sống lâu năm, cao 0,50-1,50m. Phía gốc có lá to, dài tới 40cm, trên thân có lá mọc so le nhỏ hơn, dài 10-30cm, phía cuống lá có hai tai ôm lấy thân, mép có răng cưa không đều. Cụm hoa hình đầu, hoa màu vàng. Quả bế, dài 4mm, trên có vân dọc.
Phân bố, thu hái và chế biến
Từ trước đến nay, ta vẫn phải nhập mộc hương của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc cũng phải nhập vị quảng mộc hương của nước khác. Vị này có nguồn gốc ở Ấn Độ, sau mới di thực và được trồng ở Vân Nam, do đó có tên Vân mộc hương (mộc hương của Vân Nam). Tên Quảng mộc hương do nhập từ Ấn Độ vào tỉnh Quảng Đông, rồi từ đó truyền đi toàn Trung Quốc.
Vị thổ mộc hương vốn được trồng từ lâu ở Hà Bắc, Tứ Xuyên, Triết Giang và một số tỉnh khác của Trung Quốc. Ở nước ta, việc di thực cả hai loại mộc hương đã thành công. Sau khi trồng 2 năm hay 3 năm bắt đầu thu hoạch. Đào rễ vào tháng 10 cho đến tháng 1 năm sau. Rễ đào về, cắt bỏ mẩu thân, rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô.
Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ, mộc hương vị cay, đắng, tính ôn, vào 3 kinh phế, can và tỳ. Có tác dụng kiện tỳ hòa vị, điều khí chỉ thống, an thai, chữa ngực bụng đầy, đau, tả lỵ..., nôn mửa, lỵ cấp hậu trọng.
Vân mộc hương chỉ mới dùng trong Đông y làm thuốc trợ giúp tiêu hóa, bổ dạ dày, mạnh tim, trừ đờm, lợi tiểu, đặc biệt hay dùng trong trường hợp hơi đầy lên ngực, hay ợ. Còn có tác dụng chữa đau bụng đi lỵ và cho vào quần áo đề phòng nhậy khỏi cắn.
Thổ mộc hương được dùng trong cả Đông và Tây y (Tây y dùng với tên Racine d aunée) làm thuốc trợ giúp tiêu hóa, ăn ngon, thông tiểu, chữa ho, bạch đới, thiếu máu. Đối với người bị lao, thổ mộc hương làm giảm ho, đỡ đau ngực, ăn ngon hơn. Cũng có tác dụng với ho gà, trẻ con bị tiêu chảy. Ngoài ra, theo nghiên cứu của Chabrol và Charonnat (1935) thì thổ mộc hương và hoạt chất của nó là helenin có tác dụng kích thích tiết mật trực tiếp và rất mạnh, dùng trong những trường hợp kém gan, sung huyết gan, vàng da.
Liều dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Đơn thuốc có mộc hương
Hương liên hoàn dùng chữa đau bụng, đi lỵ: Thổ mộc hương, hoàng liên, hai vị bằng nhau, tán thành bột, chế thành viên bằng hạt tiêu. Ngày uống 3g, chia làm nhiều lần. |