1) Tứ nghịch thang. Đã được làm thành thuốc nước. Gồm 3 vị phụ tử, can khương, cứu cam thảo. Phụ tử, can khương vị cay tính nhiệt, phụ tử là thuốc ôn thận dương, can khương ôn tỳ dương, cả hai vị đều mạnh, bổ sung cho nhau, can khương giúp phụ tử ôn thận, phụ tử giúp can khương ôn tỳ. Cứu cam thảo để dẫn thuốc và điều hoà, không làm cho tân nhiệt ảnh hưởng đến âm dịch, tính năng lại êm dịu giúp cho phát huy tác dụng ôn dương của khương, phụ. cam thảo vị ngọt lại kiện tỳ đi các cơ bắp để giải dương khí ra toàn thân. Cả 3 vị hợp lại có tác dụng cấp cứu hồi dương.
2) Sinh mạch tán ẩm tễ hoặc thuốc tiêm. Dùng nhân sâm đại bổ nguyên khí, cố thoát giữ tỉnh táo. Mạch môn đông dưỡng âm nhuận phế. Ngũ vị tử sinh tân, ích khí giữ mồ hôi. cả 3 vị phối hợp có tác dụng bổ nguyên khí, sinh âm tân, giữ mồ hôi để cố thoát phục mạch. Khi bệnh cảm đã thấy có triệu chứng thương tổn âm khí, phải sớm dùng sinh mạch tán chế tễ, thì không những làm chậm xuất hiện chứng thoát dương, mà còn nắm được quyền chủ động chữa trị, tạo điều kiện có lợi để bệnh tình chuyển sang bình thường.
3) Quy đương xung phục tễ. Là loại thuốc mới làm từ đương quy, sinh khương đương nhục thang. Trong đó đương quy ôn kinh dưỡng huyết, đương phục bổ khí tráng dương, sinh khương khử phong tán hàn, thêm đường mía để điều chỉnh vị thuốc. Các thuốc phối hợp có tác dụng bổ khí huyết, ôn trung tán hàn, khôi phục dương khí. Thuốc này thích hợp đối với người bị cảm không được chữa trị, ra nhiều mồ hôi sợ rét, tay chân lạnh. Có tác dụng đề phòng và làm chậm chứng hư thoát dương khí. |