Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi.
Tên khoa học Ageratum conyzoides L.
Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
A. Mô tả cây
Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mặt dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cứt lợn mọc hoang dại ở khắp. Người ta hái toàn cây cắt bỏ rễ, dùng tươi hay khô. Thường hay dùng cây hơn.
C. Thành phần hóa học
Thành phần hoạt chất chưa rõ.
Chỉ mới biết trong cây có khoảng 0,16% tinh dầu đặc (cây khô kiệt) tỷ trọng 1,109, D=1020, chỉ số axit 0,9, chỉ số este 11,2. Người ta nghi trong tinh dầu có cumarin.
Trong hoa có 0,2% tinh dầu, có mùi gây nôn, tỷ trọng 0,9357, D=9027. Trong tinh dầu hoa lá đều có cadinen, caryophyllen, garatocromen, demetoxygeratocromen và một số thành phần khác (1973 Sood V.K. Flavour Industry 2 : 77).
Theo Nguyễn Văn Đàn và Phạm Trương Thị Thọ (1973 thông báo dược liệu) thì lượng tinh dầu từ 0,7 đến 2% tinh dầu hơi sánh đặc, màu vàng nhạt đến màu vàng nghệ, mùi thơm dễ chịu. Chỉ số axit 4,5, chỉ số este 252 đến 254, D từ -308 đến -503.
Có tác giả lại tìm thấy ancaloit và saponin.
Theo Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự (J.Ess. Oil Res. L 135-136 May-June, 1989) thành phần chủ yếu của tinh dầu gồm preconcen II (agenratochromen) và caryophyllen. Ba thành phần này chiếm 77% tinh dầu.
D. Tác dụng dược lý
Năm 1965, y sĩ Điều Ngọc Thực ở Phú Thọ đã phát hiện thấy trong nhân dân dùng cây cứt lợn chữa viêm xoang mũi dị ứng, đã áp dụng trên bản thân v à một số người khác thấy có kết quả tốt.
Trân cơ sở thực tế kết quả trên lâm sàng, Đoàn Thị Nhu và cộng sự (1975, Dược học 4 và 5) đã xác định độc tính cấp LD-50 bằng đường uống là 82g/kg. Với liều độ bán mãn dùng trong 30 ngày không thấy gây những biến đổi bất thường đối với các hằng số sinh hóa trong một số xét nghiệm về cơ năng và thận.
Trên sút vật thí nghiệm thấy có tác dụng chống viêm, chống phù nề, chống dị ứng phù hợp với những kết quả thu được trên thực tế lâm sàng điều trị viêm mũi cấp và mãn.
E. Công dụng và liều dùng
1. Nhân dân thường dùng cây cứt lợn làm thuốc chữa bệnh phụ nữ bị rong huyết sau khi sinh nở: Hái chừng 30-50g cây tươi, đem về rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước và uống trong ngày. Uống trong 3-4 ngày.
2. Tác dụng chữa viêm xoang mũi dị ứng mới phát hiện: Hái cây tươi về rửa sạch, giã nát , vắt lấy nước tẩm vào bông. Dùng bông này nhét vào lỗ mũi bên đau. Hiện nay đã có một số nơi chế thành thuốc sắc sẵn.
3. Phối hợp với nước bồ kết nấu nước gội đầu vừa thơm vừa sạch gầu trơn tóc.
Chú thích:
Đùng nhầm cây cứt lợn nói đây với cây bông ổi (ngũ sắc) và cây hy thêm nhiều nơi cũng gọi là cây cứt lợn (xem các vị thuốc này).
Một số người thấy cây cứt lợn này có tác dụng tốt, nhưng tên lại xấu xí cho nên đã gọi cây này là cây ngũ sắc, ngũ vị hay còn gọi là cây bông ổi. Vậy chú ý tránh nhầm lẫn, dùng sẽ không có tác dụng mong muốn |