Còn gọi là bèo Nhật Bản, Lục bình.
Tên khoa học Eichhornia crassipes Solms.
Thuộc họ Bèo tây Pontederiaceae.
Tên bèo tây vì nguồn gốc ở nước ngoài đưa vào. Tên bèo Nhật Bản vì có người cho rằng từ Nhật đưa về. Lọc bình do cuống là phình lên giống lọ lộc bình.
A. Mô tả cây.
Cây thảo, sống nổi ở nước hay những nơi ẩm ướt. Lá mọc thành hình hoa thị, có cuống phồng lên thành phao nổi, trông giống như chiếc lọ lộc bình. Đây là một cây được nhập vào từ 1905 (không rõ từ nước nào), nhưng mọc lan rất nhanh khắp nơi, do đó nhân dân gọi là bèo Nhật Bản hay bèo tây để chỉ nguồn gốc ngoại lai, khác với cây bèo cái vốn sẵn có lâu đời ở nước ta.
Gân lá hình cung, hoa mọc thành chùm ở ngọn. Hoa không đều, màu xanh nhạt, đài và tràng cùng màu, dính liền với nhau ở gốc. Cánh hoa tên có một đốm vàng 6 nhị, 3 dài, 3 ngắn. Bầu thượng 3 ô đựng nhiều noãn. Quả nang.
B. Phân bố, thu hái chế biên.
Như đã nói, cây vốn không có ở nước ta, được đưa vào trồng ở nước ta từ 1905 để làm thức ăn cho lợn và làm phân xanh.
Chỉ từ mấy năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ở miền nam nước ta nhân dân dùng toàn lá cây này giã nát với ít muối trắng đắp lên những vết sưng tấy hay bị viêm có kết quả tốt. Thường chỉ dùng tươi. Hái quanh năm không phải chế biến gì khác.
C. Thành phần hóa học.
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu. Trước đây người ta chỉ nhận xét đây là một cây dễ trồng, cho lợn ăn chóng béo.
D. Côn dụng và liều dùng.
Chỉ mới thấy dùng đắp bên ngoài khi bị đau (mụn nhọt, vết thương) thì hái một nắm bèo tây rửa sạch, giã nát, thêm một ít muối trắng rồi đắp lên nơi sưng tấy. Khô thì lại thay miếng đắp khác. Ngày thay hai hay ba lần.
Thường những vết tấy rút rất nhanh. Nếu chưa nung mủ thường sẽ tan, nếu đã nung mủ rồi thời gian nung mủ rút ngắn, chóng vỡ hay chóng trích được hơn.
Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, nhân dân thường dùng cây bèo Nhật Bản đắp lên những nơi sưng tất, viêm loét do các chất độc hóa của giặc gây ra, có nhiều kết quả tốt |