Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Thuốc nam
Mộc hương và công dụng của nó?

Trên thị trường có nhiều loại mộc hương, nhưng sau đây là 2 vị chính:

1. Quảng mộc hương còn gọi là vân mộc hương (Radixx Saussure lappae) là rễ phơi hay sấy khô của cây vân mộc hương (Saussurea lappa Clarke) thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).

2. Thổ mộc hương còn gọi là hoàng hoa thái (Radix Helenii) là rễ phơi hay sấy khô của cây thổ mộc hương (Inula helenium L.) cũng thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).

Ngoài ra còn số cây khác cũng cho vị mộc hương cùng họ Cúc như vị xuyên mộc hương mà có tác giả xác định là Inula racemosa Hook. F., nhưng có tác giả lại xác định là Jurinea aff. Souliei Franch.

Ta đã di thực dược 2 loài quảng mộc hương và thổ mộc hương. Hiện đang phát triển.

A. Mô tả cây

Cây quảng mộc hương hay vân mộc hương là một cây sống lâu năm, rễ to mẫm, đường kính có thể đạt tới hơn 5cm, vỏ ngoài màu nâu nhạt. Phía gốc có lá hình 3 cạnh tròn, dài 12-30cm, rộng 6-15cm, cuống dài 20-30cm có dìa, mép lá nguyên và hơi lượn sóng, hai mặt đều có lông, mặt dưới nhiều hơn. Trên thân cũng có là hình 3 cạnh, nhưng càng lên trên kích thước lá càng nhỏ dần, mép có răng cưa, cuống lá gần như không cuống hay có khi như ôm lấy thân cây. Hoa hình đầu, màu lam tím. Quả bế, hơi dẹt và cong queo, màu nâu nhạt, có những đốm màu tím. Mùa hoa vào các tháng 7-9, mùa quả vào các tháng 8-10. Cây thổ mộc hương cũng là một số cây sống lâu năm, cao 0,05-1,50m. Phía gốc có lá to, dài tới 40cm, trên thân có lá mọc so le nhỏ hơn, dài 10-30cm, phía cuống có hai tai ôm lấy thân, mép có răng cưa không đều. Cụm hoa hình đầu, hoa màu vàng. Quả bế, dài 4mm, trên có vân dọc.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Từ trước đến nay, ta vẫn phải nhập mộc hương của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc cũng phải nhập vị quảng mộc hương của nước khác. Vị này nguồn gốc ở Ấn Độ, sau mới di thực và được trồng ở Vân Nam, do đó có tên vân mộc hương (mộc hương của Vân Nam). Tên quảng mộc hương vốn được trồng từ lâu ở Hà Bắc, Tứ Xuyên, Triết Giang và một số tỉnh khác của Trung Quốc. Ở nước ta, việc di thực cả hai loại mộc hương mới bắt đầu thành công, đang được đưa trồng rộng rãi. Sau khi trồng 2 năm hay 3 năm bắt đầu thu hoạch. Đào rễ vào tháng 10 cho đến tháng 1 năm sau. Rễ đào về, cắt bỏ mẩu thân, rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô

C. Thành phần hóa học

Trong vân mộc hương hay quảng mộc hương có chừng 1-2,8% tinh dầu, 6% chất nhựa sausrin (ancaloit) và chừng 18% chất inulin.

Thành phần chủ yếu trong tinh dầu là aplotaxen C15H28 và B costen C15H28O2, chất costus lacton C15H20O2, chất dihydrocostus lacton C15H22O3, rượu costola C15H24O, một ít camphen và phelandren.

Trong thổ mộc hương có tới 40% inulin, do đó tên khoa học của nó là Inula helenium. Tuy nhiên tỷ lệ inulin thay đổi theo mùa. Tỷ lệ inulin cao nhất vào mùa thu. Nếu ta cất hơi nước các chất bay hơi của thổ mộc hương, ta sẽ được một chất sánh, gồm một hỗn hợp ânntol (một chất tecpenic) C10H16O, chất helenin hay long não mộc hương (camphre d’aunée). Helenin bằng kết tinh trong cồn loãng. Helenin tinh chế có tinh thể không màu, nùi, vị nhẹ, tan trong nước, dễ tan hơn trong rượu, ête và dầu. Đồng phân của helenin có tinh thể và chảy ở 1120.

D. Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ mộc hương vị cay, đắng tính ôn, vào 3 kinh phế, can tỳ. Có tác dụng kiện tỳ hòa vị, điều khí chỉ thống, an thai, chữa ngực bụng đầy, đau tả lỵ, nôn mửa, lỵ cấp hậu trọng.

Vân mộc hương chỉ mới thấy dùng trong Đông y làm thuốc giúp sự tiêu hóa, bổ dạ dày, mạnh tim, trừ đờm, lợi tiểu, đặc biệt hay dùng trong trường hơn hơi đầy lên ngực hay ợ. Còn có tác dụng chữa đau bụng đi lỵ và cho vào quần áo để phòng nhậy khỏi cắn.

Thổ mộc hương được dùng trong cả Đông y và tây (Tây y dùng với tên Racine d’aunée) làm thuốc giúp sự tiêu hóa, ăn ngon cơm, không tiểu, chữa ho, bạch đới, thiếu máu. Đối với người lao, thổ mộc hương làm giảm ho, đỡ đau ngực, ăn, ngon hơn. Cũng có tác dụng đối vơi ho gà, trẻ con đi ỉa chảy. Ngoài ra theo sự nghiên cứu của Chabrol và Charonnat (1935) thì thổ mộc hương kích thích tiết mật trực tiếp và rất mạnh, dùng trong những trường hợp kém gan, sung huyết gan, vàng da.

Liều dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.

Đơn thuốc có mộc hương

Hương liên hoàn dùng chữa đau bụng, đi lỵ: Thổ mộc hương, hoàng liên, hai vị bằng nhau, tán thành bột, chế thành viên bằng hạt tiêu. Ngày uống 3g, chia làm nhiều lần uống.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình