Cây vòi voi còn gọi là vòi voi, cẩu vĩ trùng, đại vĩ đạo, plomoi damrey-xantui damrey (Campuchia).
Tên khoa học Heliotlopium indicum L. (Heliotlopium anysophyllum P de B). Thuộc họ vòi voi Borraginaceae. Tên vòi voi vì cụm hoa của cây giống hình vòi con voi.
A. Mô tả cây
Cây vòi voi là một loại cỏ cao từ 0,20-0,40m, thân khỏe, cứng, mang nhiều cành đều có lông. Lá hình trứng dài, phía cuống tròn và hơi hẹp lại, phía đầu tù, phía lá dài 5-9cm, rộng 3-5cm, cả hai mặt đều nhiều lông, mép có răng cưa không đều, cuống có lá dìa nhất là phía trên, dài 3-7cm .Hoa tím nhạt hoặc trắng, không cuống, so le, nhưng liền nhau trên hai hàng tạo thanh cụm hoa xim bọ cạp ở đầu cành hay kẽ lá. Quả gồm 4 hạch nhỏ, trên đỉnh dính vào nhau, phía dưới xa nhau cao 4mm, càng lên phía trên càng hẹp lại, khi chín thì tách ra.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang khắp nơi ở Việt Nam: Tại những bãi hoang, ruộng bỏ không, quanh làng.
Còn mọc ở nhiều vùng nước khác vùng Á Đông, Ấn Độ, Campuchia, Lào, Philipin.
Người ta dùng toàn cây, hái về phơi khô họăc dùng tươi.
C. Thành phần hóa học
Theo De Peralta (1928, philipp. Agr.,27:333): Trong lá, hoa, quả và rễ cây có chứa axit xyanhydric.
Một số tác giả đã chiết được từ cây vòi voi của Gana và châu Úc một ancaloit mới gọi là inđixin C15H25O5N (theo J. Chem. Soc., 12:5.400-5.463, 1961)
Năm 1969, người ta phát hiện trong một số loài Heliotropium như H. lasiocarpum Fish et Mey, một số ancaloit có nhân pyrolizidinn (như héliotrin, độ chảy 125-1260C, aD-750 (CHCL3) và lasiocarpine, độ chảy 950-970C, aD-40) (J.M. Gourley et. Chem. Commum, 1969) có độc tính cao đối với gan và gây hủy họai tổ chức gan, đau bụng, ỉa chảy, xuất huyết lan tỏa và có thể gây ung thư.
Tính chất độc này thường không thể hiện ngay khi dùng, mà thường xuất hiện một cách âm ỉ, kéo dài, khó phát hiện. Trên cơ sở đó, tổ chức y tế thế giới khuyến cáo không nên dùng vòi voi làm thuốc và Bộ Y tế Việt Nam(1985) cũng đã có chỉ thị cẩn trọng trong khi dùng vòi voi chữa bệnh, mặc dù chỉ dùng ngoài để đắp theo kinh nghiệm cổ truyên: Trong các trường hợp tụ huyết, bầm tím, do chấn thương, viêm tấy, áp xe, sưng vú, sưng khớp, đinh nhợt giai đoạn chưa có mủ… Tuy nhiên không nên dùng cho người già yếu và khi có kết quả nên ngừng ngay, không nên dùng lâu.
D. Tác dụng dược lý
Cây vòi voi vó tác dụng chủ yếu:
Trong 2 năm 1961-1962, bệnh viện Hải Dương đã dùng cao rượu vòi voi để điều trị cho 856 bệnh nhân bị bong gân, tụ huyết, bầm sưng do sang chấn, viêm, viêm tấy, áp xe, chín mé, viêm bạch v.v… đã đi tới một kết luận sau đây:
- Cao rượu vòi voi có tác dụng rất tốt đối với những trường hợp viêm hay cương tụ huyết chưa làm mủ: chỉ cần đắp cao rượu vòi voỉtong 3-4 ngày, đắp liên tục.
- Nếu đã có mủ rồi, cao rượu vòi voi không có tác dụng làm tan mủ, nhưng cũng làm cho mủ không lan rộng hơn và làm bớt sưng tấy ở những vùng xung quang ổ mủ.
- Sau khi trích mủ, nếu băng bằng cao rượu vòi voi, viết thương chóng lành và đỡ đau hơn là băng thường.
- Cao rượu vòi voi đắp lên chỗ sưng làm dịu chỗ đau ngay, bệnh nhân thấy có cảm giac mát dịu. dễ chịu, không nhức nhối nhưu khi chưa đắp thuốc (Y học thực hành, 1/1963)
2. Chữa sưng đầu gối và những triệu chứng sau đây: Trước phát bệnh mỏi đầu gối, 3 hôm sau, vùng đầu gối đỏ và sưng to lên, người lên cơn sốt nhẹ, không đi lại được.
Dùng cây tươi, chặt thành từng đoạn nhỏ, giã cho dập, bỏ vào nồi sao với dấm hoặc với rượu, gói vào miếng vải, buộc vào chỗ sưng. Làm như vậy trong một năm (Y học tạp chí Đông y, 1961, số 11).
E. Công dụng và liều dùng
Trong dân gian, vòi voi là một vị thuốc chữa tê thấp, viêm tấy, mụn nhọt, viêm họng, mẩn ngứa.
Dùng uống trong hay xoa đắp bên ngoài
Ngày uống 15-20g tươi.
Có người còn dùng làm thuốc điều kinh, nhưng liều quá cao có thể xẩy thai |