Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Thuốc nam
Trinh nữ hoàng cung và công dụng của nó?
Trinh nữ hoàng cung còn gọi là hoàng cung trinh nữ, tây nam văn châu lan, thập bát học sỹ (Trung Quốc), tỏi (Thái Lan).

Tên khoa học Crinum latifolium L.

Thuộc họ Thủy tiên Amaryllidaceae.

Tên trinh nữ hoàng cung do cay này được dùng để trị bệnh cho phụ nữ còn trinh tiết được tuyển chọn vào cung vua nhưng không được chú ý nên mắc một số bệnh riêng của những phụ nữ sống trong cùng hoản cảnh.

A. Mô tả cây

Trinh nữ hoàng cung là một loại cỏ, thân hành như củ hành tây to, đường kính 10-15cm, bẹ lá úp vào nhau thành một thân giả dài khoảng 10-15cm, có nhiều lá mỏng kéo dài từ sống. Gân lá song song, mặt trên lá lõm thành rãnh, mặt dưới lá có một sóng lá nổi rất rõ, đầu bẹ lá nơi sát đất có màu đỏ tím.

Hoa mọc thành tán gồm 6-18 hoa, trên một cán hoa dài 30-60cm. Cánh hoa màu trắng có điểm màu tím đỏ, từ thân hành mọc rất nhiều củ con có thể tách ra để trồng riêng dễ dàng.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Dân gian thường nói rằng trinh nữ hoàng cung chỉ mọc ở Thái Lan, Campuchia nhưng thực tế ở Việt Nam cũng có mọc từ lâu và hiện nay thấy trồng ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam.

Ở Việt Nam bộ phận dùng là lá dùng tươi hay phơi hoặc thái nhỏ sao cho vàng dùng dần. Nhưng ở một số nước người ta dùng cán hoa, thân hành của cây, thái nhỏ phơi khô.

C. Thành phần hóa học

Năm 1984, Ghosal (Ấn Độ) đã phân lập và xác định từ cán hoa trinh nữ hoàng cung một glucoancaloit có tên latisolin. Thủy phân bằng enzym thu được aglycon có tên latisodin (J. Chem. Ré., 1983).

Ghosal và Shibnath còn phân lập được từ thân hành lúc cây đang ra hoa pratorimin và pratosin là 2 ancaloit pyrolophenanthrindon mới cùng với những chất đã được biết như pratorimin, ambelin và lycorin.

Năm 1986, Ghosal còn công ố tách được từ trinh nữ hoàng cung một số dẫn chất ancaloit có tác dụng chống ung thư crinàolin và crinafolidin (C. A., 1987, VOI. 106. 64286n). Năm 1989, Ghosal còn chiết được từ dịch ép của cán hoa trinh nữ hoàng cung 2 ancaloit mới có nhân pyrrolophennanthridin là 3-epilyconrin và 2-epipancrassidin (Phytochemistry, 1989, 28(9), 2535-7).

Một số nhà khoa học Nhật Bản ( Kobayashi Shigenru., Tomoda. Masashi, vol. 102. 3236s và 128865c, 21140k) cũng tìm  thấy một số ít ancaloit khác từ trinh nữ hoàng cung.

D. Công dụng và liều dùng

Từ những năm 1989-1990, nhân dân ta đồn nhau tìm sử dụng lá cây trinh nữ hoàng cung để chữa những trường hợp u xơ, ung tư tử cung (đối với phụ nữ) u xơ và ung thư tiền liệt tuyến (đối với nam giới) với cách dùng như sau:

Ngày uống nước sắc của 3 lá trinh nữ hoàng cung hái tươi thái nhỏ ngắn 1-2cm, sao khô màu hơi vàng, uống luôn trong 7 ngày, rồi nghỉ 7 ngày, sau đó lại uống tiếp 7 ngày nữa, rồi lại nghỉ 7 ngày và uống lá, xen kẽ 2 đợt nghỉ uống, mỗi đợt 7 ngày. Nhiều người chỉ uống nước sắc trinh nữ hoàng cung như trên cũng thu được kết quả tốt. Nhưng có một số bệnh nhân uống thêm cùng nước sắc trinh nữ hoàng cung nước sắc một “đơn thuốc bổ thận’’, khi hỏi từ đau có đơn thuốc này, thì câu trả lời không rõ ràng, nhưng vì tôi được đọc một bản chụp một tờ báo tiếng Việt ở nước ngoài gửi về (không thấy ghi tên, ngày, tháng), nhiều người chỉ uống nước sắc trinh nữ hoàng cung mà cũng khỏi cho nên tôi cứ ghi lại ở đây để mọ người cùng theo dõi: Đơn thuốc có 18 vị như sau:

Chế viễn chi                8g                             Liên nhục                  12g

Đảng sâm                 12g                             Thục địa                    12g

Quảng bì                    12g                             Mẫu đơn                     8g

Hắc đỗ trọng             12g                             Hắc táo nhân            16g

Sơn thù nhục               8g                             Trích hoàng kỳ             8g

Phục linh                    12g                             Trích thảo                     8g

Nhục thung dung       12g                             Ngưu tất                    12g

Câu kỷ tử                   12g                             Hòai sơn                   12g

Bạch truật                     8g                             Trạch tả                     12g

Để tiện cho người dùng cũng như tiện cho người thầy thuốc theo dõi kết quả điều trị, sau khi kiểm tra đúng các vị thuốc, chúng tôi chế thành ba dạng thuốc: Trà trinh nữ hoàng cung, trà thuốc bổ thận, trà phối hợp thúốc bổ thận và trà trinh nữ hoàng cung. Ở những nơi khí hậu quá ẩm thấp, dạng trà khó bảo quản, chúng tôi chế thành dạng nước sắc đóng ống, cũng với ba dạng như trên.

Khi uống phối hợp nước săc với trinh nữ hoàng cung với đơn thuốc bổ thận, thì cần 10 thang thuốc bổ thận. Tuần đầu uống 4 thang thuốc bổ thận cùng với 7 ngày uống thuốc sắc trinh nữ hoàng cung, 2 tuần sau, khi uống nước sức trinh nữ hoàng cung thì mỗi tuần uống 3 thang thuốc bổ thận.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình