Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Thuốc nam
Tác dụng làm cầm máu của cây Hoàng cầm?

Tên khoa học scutellaria baicalensis georg. Thuộc họ hoa môi lamiaceae (labiatae).

Hoàng cầm là một vị thuốc thông dụng, hiện nay chưa thấy ở nước ta, nhưng vì có người nhận nhầm một số cây khác ở ta làm hoàng cầm cho nên chúng tôi giới thiệu ở đây để tham khảo và để chú  ý di thực. Hoàng = vàng, cầm = kiềm (vàng sẫm) vì vị thuốc có màu  vàng sẫm,

A. Mô tả cây  

Hoàng cầm là một cây cỏ sống  dai, cao 20-50cm, có rễ phình to thành hình chuỳ, mặt ngoài màu vàng sẫm bẻ ra có màu vàng. Thân mọc đứng, vuông, phân nhánh, nhẵn hoặc có lông ngắn. Lá mọc đối, cuống rất ngắn, hoặc không cuống, phiến lá hình mác hẹp, hơi đầu tù mép nguyên, dài 1,5-4cm, rộng 3-8mm hoặc 1cm, mặt trên màu xanh sẫm, mặt dưới xanh nhạt. Hoa mọc thành bông ở đầu cành, màu lam tím. Cánh hoa gồm 2 môi, 4nhị (2 nhị lớn dài  hơn tràng) màu  vàng, bầu có 4 ngăn. (hình 241,hm57,3)

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Đang thí nghiệm di thực vào vùng mác ở nước ta. Cây mọc tốt, nhưng chưa phát triển. Hiện vị này vẫn phải nhập của trung quốc (hắc long giang, liêu ninh, hà bắc, hà nam, vân nam, nội mông). Mọc hoang cả ở liên xô cũ được nghiên cứu sử dụng làm thuốc chữa cao huyết áp.

Mùa xuân và thu hoạch lấy rễ: đào về cắt bỏ rễ con, rửa sạch  đất cát, phơi hơi khô, cạo bỏ vỏ mỏng,phơi hoặc sấy khô là được.

C. Thành phần hoá học 

Trong hoành cầm có  tinh dầu, các dẫn xuất flavon: scutelarin(hay woogonin) c6h12o11 và baicalin c21h18o11.

Chất scutelarin có cả  trong lá, rể và thân 8,4-10,3%, chất baicalin chỉ có trong rễ. Ngoài ra còn có tanin và chất nhựa. Không thấy có ancaloit,glucozit chữa tim, saponin vita-min c.

Chất baicalin có  tinh thể màu vàng tươi, độ chảy 223oc có thể chiết xuất từ rể hoàng cầm bằng cồn 50oc sôi, dùng axit sunfuric đặc thuỷ phân sẽ được axit glycuronic và baicalein c15h10o5 (5-6-7 trioxyflavon) có tinh thể màu vàng không tan trong nước, tan trong cồn, độ chảy 264-265oc. Dung dịch rượu baicalin thêm fecl3 sẽ cho màu xanh đen, với axetat chì sẽ  cho kết tủa màu vàng cam, hoà tam trong kiềm sẽ cho màu vàng, có thể khử bạc nitrat,

Scutelarin hay woogonin là một chất có tinh thể màu vàng, chảy ở trên 300oc thuỷ phân bằng dung dịch 30-40% axit sunfuric sẽ cho scutelarein c15h10o6 (5-6-7-4 tetraoxyflavon), scutalarein có tinh thể màu vàng, độ chảy ước vào 330-350oc đun 200oc với koh sẽ cho p hoc6h4cooh và một chất phenol cho phản  ứng phlogluxinola.

D. Tác dụng dược lý

Hoàng cầm đã được các nhà nghiên cứu liên xô cũ và trung quốc nghiên cứu và đạt được một số kết quả:

1.tác dụng hạ huyết áp

A) theo báo y học liên xô cũ (1951-6) dùng hoàng cầm điều trị cao huyết áp thấy huyết áp từ 190/110 hạ xuống 135/60 và từ 190/95 hạ xuống 140/80. Tác dụng hạ huyết áp này  có thể do ảnh hưởng của hoàng cầm đối với thần kinh thực vật. Đối với cao huyết áp ác tính không có hiệu lực.

B) theo vecsinin (dược lý học,1952) rượu hoàng cầm 1/5 có tác dụng hạ huyết áp, đặc biệt đối với huyết áp càng cao tác dụng càng rõ.

Căn cứ vào thí nghiệm trên động vật (chó) thì tác dụng hạ huyết áp này một phần do tác động trấn tĩnh đối với trung khu thần kinh, một phần do tác dụng trực tiếp với huyết quản.

C) theo lâm cát tường và một số người cùng nghiên cứu (trung quốc sinh lý khoa học hội,1956) dùng nước hoàng cầm 16% rồi cho thỏ uống với liều lượng 3g/kg thể trọng, uống luôn 3 tuần, cho chó uống với liều 6g/kg thể trọng, uống liên tục 8 tuần đều không thấy hiện tượng độc;dùng liều 3g/kg thể trọng chữa cao huyết áp thực nghiệm tạo trên chó, dùng luôn trong 4 tuần thấy huyết áp hạ xuống, tần số tim đập giảm chậm lại.

D. Vương nhĩ đạt và khâu bồi luân (1956) trong trung quốc sinh lý khoa học hội đã đi sâu nghiên cứu cơ chế hạ huyết áp của hoàng cầm. Các ông đã dùng rượu hoàng cầm tiến hành trên động mạch bình thường, động mạch thỏ đã bị cứng do dùng nhiều cholesterin và dùng phương pháp nicôlaev (tai thỏ cô lập còn để lại dây thần kinh) để theo dõi ảnh hưởng của hoàng cầm đối với trung khu thần kinh. Đã đi đến một số kết luận sau đây:

Rượu hoàng cầm có tác dụng dãn mạch đối với mạch của tai thỏ cô lập. Nồng độ 1/10.000 cho kết quả rõ rệt.

 rượu hoàng cầm có tác dụng dãn mạch đối với mạch của thận thỏ. Nồng độ 1/10.000 cho kết quả rõ rệt.

Dùng 3 loại dung dịch 1/50.000-1/100.000 và 1/500.000 đối với động mạch tim thì phần lớn thấy tác dụng co mạch nhẹ, cá biệt mới thấy hơi có tác dụng dãn mạch.

Dùng cồn hoàng cầm với liều  0,2ml/kg thể trọng và 0,5ml/kg thể trọng tiêm vào tĩnh mạch thỏ bình thường, động mạch tai thỏ đã xơ cứng theo nicôlaev thấy hiện tượng dãn mạch.

Dung dịch 1/10.000 cồn hoang đối với mạch máu bình thường, mạch máu đã xơ cứng và tai thỏ cô lập còn giây thần kinh đều thấy huyết áp toàn thân hơi hạ xuống.

2. Độ độc của hoàng cầm: dù với liều rất cao, hoàng cầm cũng tỏ ra ít độc.

3. Tác dụng kháng sinh: từ trấn (1947), lưu quốc thanh(1950) và khổng khản (1955) đã nghiên cứu tác dụng kháng sinh của nhiều vị thuốc bắc, thấy nước sắc hoàng cầm 100% có khả năng ức chế vi trùng bạch hầu (21-30mm) strepococcus hemolytic a. Staphylococcus aureus, vi trùng tả, vi trùng phó thương hàn, colibacile, streptococcus hemolytic b, vi trùng lao và dịch tả.

4. Tác dụng giảm sôt: trương phát sơ, trương diệu đức và lưu thiệu quang (trung hoa y học chí, 1935) đã gây sốt cho thỏ bằng vi trùng thương hàn rồi tiêm 4-8ml dung dịch 6% hoàng cầm vào tĩnh mạch; tất cả tiến hành 10 lần thí nghiệm đều thấy tác dụng giảm sốt. Sau khi tiêm thuốc một giờ, nhiệt độ hạ xuống, sau đó dần dần tăng lên và trở lại nhiệt độ bình thường. Nhưng chư chứng minh được rằng vị thuốc cho uống có tác dụng hạ nhiệt hay không.

5. Tác dụng lợi tiểu: nhật bản dược vật học tạp chí (1956) có nghiên cứu tác dụng của woogonin, baicalin và baicalein trên thỏ thấy có tác dụng lợi tiểu.

6. Tác dụng của vitami p: chúng ta đã biết các hoạt chất của hoàng cầm tìm thấy đều là dẫn xuất flavon. Mà tác dụng của flavon đều có tác dụng của vitamin p (xem cây hoa hoè).

E. Công dụng và liều dùng

Trong đông y hoàng cầm là một vị thuốc mát chữa sốt, chữa cảm mạo, ho cảm, cầm máu, kinh nguyệt quá nhiều. Theo tài liệu cổ: hoàng cầm vị đắng tinh hàn, vào 5 kinh tâm,phế, can, đởm và đại tràng. Có tác dụng tả phế hoả, thanh thấp nhiệt. Dùng chữa hàn nhiệt vãng lại, phế nhiệt sinh ho, tả lỵ đau bụng, thấp nhiệt da vàng, đau nhức, mặt đỏ, đau, động thai. Liều dùng mỗi ngày 6 đến 15g sắc với nước chia 3 lần uống trong ngày. Có thể dùng bột. Gần đây, hoàng cầm được dùng làm thuốc chữa các triệu chứng nhức đầu, mất ngủ các bệnh cao huyết áp do thần kinh thực vật do mạch máu bị cứng, đồng thời được dùng điều trị bệnh cao huyết áp. Dùng dưới hình thức rượu hoàng cầm (bộ hoàng cầm 29g, cồn 790 vừa đủ 100ml). Ngày uống 2 đến 3 lần, mỗi lần 20-3- giọt.

Đơn thuốc hoàng cầm trong kinh nghiệm cổ truyền

1. Thành kim hoàng: hoàng cầm sấy khô tán nhỏ thành viên to bằng hạt ngô. Ngày dùng 20-30 viên. Chữa các bệnh đổ máu cam, thổ huyết, kinh nguyệt quá nhiều, cảm mạo, ho cảm.

2. Tam hoàng cầm (theo thiên kim phương).

Hoàng cầm (mùa xuân 120g, mùa hạ và mùa thu 240g, mùa đông 120g).

Hoàng liên (mùa xuân 160g, mùa hạ 280g, mùa thu 120g, mùa đông 80g).

Đại hoàng (mùa xuân 120g, màu hạ 40g, mùa thu 120g, mùa đông 200g).

Cả ba vị, liều lượng tuỳ theo mùa mà thay đổi, tất cả tán nhỏ, dùng mật ong viên thành viên to bằng hạt đậu đen. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5-7 viên. Uống luôn trong một tháng. Chữa bệnh lao, viêm niêm mạc tử cung.

3. Hoàng cầm-mạch môn đông,mỗi vị 10g. Sắc uống trong ngày thay nước. Dùng sai khi sinh nở bị mất máu nhiều, khát nước.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình