Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Thuốc nam
Tác dụng của cây Tỏi độc?

Còn gọi là colchique.

Tên khoa học colchicum autumnale l.

Thuộc họ hành tỏi liliaceae.

Cây tỏi độc có những vị sau đây:

1. Dò tỏi độc turber colchici hay bulbus colchici là dò cây tỏi độc hài về phơi khô.

2. Hạt tỏi độc: semen colchici là hạt phơi hay sấy khô của cây tỏi độc.

Ngoài cây tỏi độc-colchicum autumnale l. Ra, ta còn dùng dò và hạt của nhiều loại khác như cochiim speciosum stev… colchicum variegatum l. Hoặc cây androcymbium gramineum mac bride cùng họ và cùng chứa hoạt chất colchixin.

A. Mô tả cây

Tỏi độc là loại cỏ sống lâu năm, do một mẫm dài 3-4cm mọc sâu dưới đất, quanh năm có phủ các vẫy nâu, tức là gốc nhưng là củ khô đi. Từ dò mọc lên cán hoa với 3-4 hoa, hoa xuất hiện vào mùa thu (9-10) hoa có hình ống dài  vượt lê mặt đất chừng 10-15cm, phần ống phía trên loe thành hình chuông với 6 cánh hình bầu dục, màu tím hồng nhạt đẹp với 6 nhị, 3 nhị phía trong ngắn hơn,  với bao phấn lớn màu vàng cam, nhị gồm 3 lá noãn hợp thành một bầu 3 ngăn với lối đình phôi trung trụ, 3 vòi rất dài nhưng dấu kín trong hành. Lối thụ tinh rất đặc biệt vì phấn hoa được truyền đi do sâu bọ hay do giór ơi trên sẻ phóng ra một ống dài để đi tới tân tiểu noãn. Tuy nhiên sự phối hợp các giao tử (gamète) tiến hành chậm, sau khi thụ phấn nhiều tháng, chỉ vào mùa xuân tới, lúc vành lá xuất hiện, phát triển kéo theo bầu lên khỏi mặt đất, cuối cùng cho quả nang chín vào tháng 6, lá héo và hạt rụng sớm trước mùa thu hái rơm rạ do đó tránh súc vật ăn phải và khỏi bị ngộ độc. Quả là một nang to 3 ngăn, phía trên của lá noãn xa ra, trong chứa nhiều hạt, mỗi ngăn có tới 60-80 hạt khá to, màu nâu nhạt xù xì có noãn tích (raphé) dày rõ, cắt ngang trông rõ phôi nhỏ giữa phôi nhũ.

Lá cây tỏi độc to, dài, đầu lá hẹp nhọn, khi quả chín thì lá héo đi và trên mặt đất hầu như không còn dấu vết gì của cây nữa cho đến khi mùa thu tới lại thấy hoa từ dưới đất xuất hiện, sát cạnh dò đã cho hoa và quả mọc một dò mới cho cây năm tới (hình 256).

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Tỏi độc là một loại cỏ mọc hoang ở những bãi cỏ những vùng ôn đới lạnh châu âu: rumani, hungari, vùng capcadơ (liên xô cũ). Có nơi trồng lấy hoa làm cảnh. Trồng bằng dò hay bằng hạt, có nơi trồng cây không cho hạt. Tại rumani (cluj) và hungari (kolosvar) người ta trồng trên quy mô kỹ nghệ, hàng năm thu tới 7-8 tấn hạt (theo em. Perrot). Năm 1958, chúng tôi thí nghiệm di thực vào nước ta nhưng chưa thành công (đỗ tất lợi)

Muốn thu hoạch dò cần  đào sau khi lá đã  hoàn toàn héo và trước khi ra hoa, thường ở châu âu tháng thu hoạch tốt nhất là tháng 8, muốn có hiệu suất hoạt chất cao cần chú ý nơi cây mọc trước khi héo lá là vì khi đó hầu như không còn dấu vết gì của cây rất khó tìm. Để dễ tìm người ta đào cũ hơi sớm hơn một chút vào tháng 7, nếu chờ tới cuối thu hay đầu xuân thì tỷ lệ hoạt chất còn kém hơn nữa. Sau khi đào dò về, người ta hái bỏ thân mang hoa, cắt bỏ rễ và 2 lớp ngoài màu nâu nhạt, mỏng và khô, sao đó để nguyên mà phơi hay cắt thành từng khoanh ngang rồi mới phơi. Tuy nhiên người ta thường dùng dò tươi có tác dụng mạnh hơn. Dò tỏi độc có hình một hạt rẻ tây nhỏ, dài 3-4cm rộng 2-3cm, phía đáy hơi cụt, phía bụng có một rãnh sâu rộng là vị trí của thân cây cắt bỏ đi, phía dưới của rãnh là một seơ của thân đính vào trước, phía dưới nữa là một sẹo nữa là một dò cũ dính vào, phía trên ở mặt lưng lại có một  sẹo thứ 3 là vết của thân năn trước để lại. Khi dò còn tươi, ta thấy dò mẫm chắc, khi ép sẽ có một dịch chảy ra, vị đắng, màu đục như sữa vì chứa rất nhiều tinh bột.

Dò cắt ngang có hình mặt trăng khuyết, màu trắng,phía trong màu hơi sẫm hơn có những bó libe-gỗ màu xám vàng nhạt, những mãnh dò khô hầu như không có mùi vị gì đặc biệt, vị cũng không đắng nữa mà hơi nhạt và nhầy.

Trên vi phẫu ta thấy tế bào chứa nhiều tinh bột, những bó libe-gỗ hình bầu dục,không có cường thể. Hạt tinh bột rất đặc biệt hoặc đứng riêng hay tụ từng đám 2-3 hạt, tễ hình sao rất đặc biệt.

Hạt có thành phần ổn định hơn, dễ phơi hơn, bảo quản dễ hơn, do đó nhiều nước chỉ công nhận hạt dùng làm  thuốc, tuy nhiên người ta vẫn dùng dò để chiết conchixin. Quy ước quốc tế ở bruxelles chỉ công nhận hạt làm thuốc. Hạt hái vào lúc quả chín, loại bỏ tạp chất rồi phơi khô. Hạt hình cầu đường kính 2mm, trên mặt nhăn nheo, nếu chưa cũ quá thì khi bóp vào thường dính với

nhau do có glucoza tiết ra, trên phía đầu có hạt nhỏ bao quanh tễ; không mùi, vị hắt và đắng, cắt ngang thấy một đường đen nhạt bao quanh phôi nhũ xám nhạt cứng như sừng, phôi rất nhỏ.

C. Thành phần hoá học

Trong dò tỏi độc có tinh  bột, đường, gôm, tanin, nhựa và chất ancaloit gọi là cochixin. Tỷ lệ conchixin trong dò thay đổi tuỳ theo mùa, từ  0,1-0,35%.

Trong hạt có vết axit galic, tanin, dầu, đường và 0,5 đến 3% chichixin.

Conchixin là một ancaloit được pelletier và cavenou phát hiện đầu tiên vào năm 1820 nhưng các tác giả này lại nhầm là veratrin. Đến năm 1833, geiger và hesse cũng lấy ra được nhưng ở trạng thái chưa tinh khiết. Mãi tới năm 1884, hubler mới chiết được dưới dạng tinh khiết. Và được  nghiên cứu kỹ: conchixin hầu như ít tan trong nước, tn nhiều trong cồn và benzen, clorofooc, không tan trong ête dầu hoả. Dưới tác dụng của axit loãng, hay kiềm loãng, conchixin tách ra thành cồn metylic và conchixin vốn không có trong cây, vậy  conchixin có thể coi như là metylcochixein. Conchixin kết tinh trong clorofooc, với dạng hình kim màu  vàng nhạt, nghiền tron tối cho huỳnh quanh xanh. Ra không khí những tinh thể này mất dần clorofooc; trong nước nóng lại càng chóng mất clorofooc hơn và conchixin chính thức dưới dạng vô định hình màu vàng nhạt, vị đắng lâu hơi nhầy, tả tuyền.

Năm 1950, người ta thấy trong tỏi độc một ancaloit mới đặt tên là conchamin có tác dụng dược lý giống như conchixin nhưng ít độc hơn (7 đến 8 lần kém độc hơn).

Năm 1952, bellet còn tìm thấy trong hạt tỏi độc colchicum speciosum stev mọt glucoancaloit gọi là conchicozit glucozit của 2 demetylconchixin, 100 lần ít độc hơn.

Cũng vào thời kỳ gần đây người ta thấy rằng tên conchixerin thực tế là hỗn hợp conchixin và conchamin. Cấu tạo của conchixin và conchamin được xác định theo công thức khai triển sau:

Conchamin có thể coi như là chất desaxetylconchixin trong đó nhóm axetyl được thay bằng nhóm metyl.

Muốn xác định conchixin, ta có thể sắt hạt hay dò với nước, cô đặc sau khi lọc, rồi  thêm vào cao còn lại là axit sunfuric sẽ cho thấy xuất hiện màu vàng, màu này chuyển sang màu đỏ tím khi thêm axit nitric đặc.

Trong hạt, conchixin nằm ở những tế bào vỏ do đó khi dùng không cần thiết tán hạt; trong dò, conchixin tập trung ở những tế bào biểu bì và những tế bào quanh bó libe- gỗ (theo erra, fourment và roques, 1927).

D. Tác dụng dược lý

Từ hơn 200 năm trước đây, cây tỏi độc được nhân dân đức dùng chữa bệnh gút (thống phong) và làm thuốc thông tiểu. Nhưng cơ chế tác dụng chưa được  rỏ lắm.

Hiện nay người ta thấy conchixin gây hạ nhiệt, tăng huyết áp, tăng nhu động một cách thái quá. Trên điểm nối thần kinh cơ (jonction neuro-musculaire), conchixin gây nghẽ biểu hiện bằng tê liệt và nếu kéo dài biểu hiện teo cơ xương.

Conchixin còn tác dụng lên tế bào đang phân chia: đối với hiện tượng này, conchixin có khả năng cản trở hiện tượng gián phân (mitose) trong giai đoạn biến kỳ (métaphase). Tác dụng này đang dùng trong việc cải tạo giống cây trong nông nghiệp.

Chỉ có tác dụng hạ nhiệt, chống dị ứng (anti- allergique) và chống bệnh gút được dùng trong điều trị.

Gần đây người ta còn nêu  giả thuyết là  tác dụng của conchixin là do  conchixin kích thích vỏ thượng thận và do sự  tiết những hocmon như cortison.

Dùng tỏi độc  có thể có những hiện tượng như nôn mửa, đi lỏng, đu bụng: liều chết trung bình là 0.03mg đối với kg thể trọng, 1centigam đã gây cho người những hiện tượng ngộ độc, sự bài tiết chất độc của conchixin chậm do đó những người viêm thận hay thiểu năng thận không nên dùng.

E. Công dụng  và liều dùng

Tỏi độc dùng dưới dạng cồn hạt 1/10 với liều 1,5g một lần, 3g trong 24 giờ; cao cồn nước với liều 0.05g một lần, 0,20g trong 24 giờ hoặc dùng conchixin với liều 2mg một lần, 4mg trong 24 giờ để chữa bệnh thống phong, đối với những cơn đu thường kết quả làm cho đỡ đau, đỡ sốt.

Không nên dùng lâu sợ bị ngộ độc. Khi thấy có hiện tượng ỉa lỏng, thì ngừng thuốc ngay. Thường chỉ dùng trong 4-5 ngày lại nghỉ.

Thuốc độc, phải bảo quản theo chế độ thuốc độc bản a.

Hiên nay người ta chú ý  trồng cây tỏi độc với mục đích chế conchixin dùng trong nông nghiệp nhiều hơn là dùng làm  thuốc. Tuy nhiên một số nước vẫn dùng tỏi độc và các chế phẩm của tỏi độc để làm thuốc.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình