Bông ổi còn gọi là ngủ sắc, trâm hôi, cây hoa cứt lợn, tứ thời tứ quí (Quảng Bình)
Tên khoa học lantana camara L.
Thuộc họ cỏ roi ngựa Verbenaceae
A. Mô tả cây
Cây nhỏ mang nhiều cành ngang, có lông và gai ngắn quặp về phía dưới lá hình bầu dục, đầu nhọn mặt xù xì, mép có răng cưa, mặt trên có lông ngắn, cứng, mặt dưới lông mềm hơn, phiến lá dài 3-9cm, rộng 3-6cm, cuống lá ngắn, phía trên cuống có dìa. Hoa không cuống, màu trắng, vàng cam hay đỏ mọc thành bông hình cầu gần giống như hình đầu. Hoa có lá bắc hình mũi giáo. Đài hình chuông, có hai môi. Tràng hình ống có bốn thì không đều. Quả hình cầu, màu đỏ nằm trong lá đài, mang hai hạch cứng, xù xì.
B. Phân bố thu hai và chế biến
Cây nguồn gốc các nước Trung Mỹ, sau được phổ biến đi khắp các nước vùng Viễn Đông, Mangat, Tân Caledonia. Tại Tân Caledonia cây mọc hoang và phát triển tới mức chính phủ ở đây phải ra lệnh triệt hết những cây này dù chỉ giữ một gốc để làm cảnh cũng không được phép.
Tại Việt Nam cây này được làm cảnh và mọc dại. Toàn thân cây tỏa ra một mùi đặc biệt có người ưa nhưng cũng có người không ưa.
Lá và cành đựợc dùng làm thuốc; hái về phơi hay sáy khô.
C. Thành phần hóa học
Năm 1943 lowd đã chiết được từ cây bông ổi một chất gọi là lantanin.
D. Công dụng và liều dùng.
Một số nơi dân gian dùng lá bông ổi giã nát đắp lên những vết thương vết loét, người ta cho lá bông ổi có tính chất sát trùng lên da, cầm máu. Người ta còn dùng đắp nơi rắn cắn và cho vào nồi nước sôi xông chữa cảm mạo, sốt
Dùng ngoài không kể liều lượng.
Chú thích:
Cây này không có tác dụng chữa viêm xoang mũi như cây cứt lợn ageratum conyzoides. Chú ý tránh dùng lầm |