Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Thuốc nam
Nhãn hương và công dụng của nó?

Nhãn hương có tên khoa học melilotus suaveolens ledeb.

Thuộc họ cánh bướm papilionaceae.

Nhãn hương là mùi thơm của nhãn vì cây khô thoang thoảng có mùi nhãn, melilotus do chữ Hy Lạp, mel: mật, lotos: cỏ thức ăn gia súc, vì cỏ thức ăn gia súc có mùi mật.

A. Mô tả cây

Cỏ sống hàng năm, mọc thẳng đứng, cao 0,8-1m, thân hơi khúc khuỷu do các cuống lá men xuống. Cành mọc đứng, mảnh khảnh. Lá kép cấu tạo bởi ba lá chét. Lá chét hình trái xoan dài 1,2-1,5cm, rộng 0,4-0,8cm, khía răng cưa ở nửa trên, 7-11 đôi gân phụ, không rõ rệt, cuống lá dài 1,5-2cm, hình sợi chỉ, lá kèm hình dùi, dài 8-10mm dính với nhau và với cuống lá trên 2mm. Cụm hoa hình chùm ở kẽ lá, mang nhiều hoa rất nhỏ, màu vàng. Đài hình chuông, có 5 răng nhọn bằng nhau. Cánh hoa rụng sớm, có hình thìa. Cạnh thuyền hình lưỡi hái, cánh thìa tù ngắn. Nhị lưỡng thể gồm 10 chiếc, trong đó 9 chiếc dính với nhau bởi chỉ, chiếc thứ mười tự do, bao phấn giống nhau. Bầu ngắn, vòi dài, đầu nhụy nhỏ. Quả loại đậu ngắn, không mở, thoạt tiên nhẵn, về sau nhăn nheo và có màu đen.

Một hay hai hạt hình bầu dục.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây mọc hoang ở các bãi đồi, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Phú Thọ. Theo Pételot (1952) thì trước đây dân gian ta hình như không dùng. Chaffanjon vốn là người Pháp quen dùng cây này chữa mắt đã giới thiệu cách dùng nước sắc cây chữa đau mắt. Nhưng thực tế ít thấy người dùng. Tại các nước Châu Âu người ta dùng một loại cây gọi là mêlliô, Trung Quốc gọi là hoàng linh lăng hương melilotus officinalis desr. Và melilotus altissimus thuil dưới dạng ngọn cây cắt lúc đang ra hoa thành từng đoạn dài 20-25cm (đối với loại m. Altsisimus) phơi khô trong mát, rồi bó thành từng bó. Cây tươi màu như không mùi, nhưng khi khô có mùi mậ

C. Thành phần hóa học

Cây nhãn hương melilotus suaveolens chưa thấy tài liệu nghiên cứu. Nhưng khi phơi khô cũng có mùi thơm như cây melilotus officinalis đã được nghiên cứu giới thiệu sau đây:

Trong cây tươi melilotus offcinalis có mọt heteroxit gọi là melilotozit. Trong quá trình phơi khô, melilotozit bị men emunsin thủy phân cho glucoza và axit cumaric. Axit cumaric bỉ khử nước, đóng vòng lacton cho cuma rin. Hàm lượng cumarin thay đổi tùy theo loại, lá chứa nhiều hơn là thân và hạm lượng cao nhất vào trước lúc ra hoa. Trung bình trong cỏ khô có 0,4 đến 0,9% cumarin bên cạnh cumarin còn có axit melilotic:

Trong cỏ meliotus officinalis bị thối có một chất độc gọi là dicumarola hay metyl-3-hydroxy-4-cumarin. Súc vật ăn phải cỏ này có thể bị xuất huyết nặng, có khi chế. Hiện tượng súc vật bị ngô độc nảy thường thấy ở canada và mỹ. Nhưng mãi tới năm 1931, scofield mới phát hiện thấy rằng chất này do cumarin bị một thứ nấm trong cây biến thành. Link và những người công sự đã xác định  và tổng hợp được dicumarol vào năm 1941.

Trong thân, lá và hoa nhãn hương có tinh dầu. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là dihydrocumarin c9h8o2 (Trung Quốc kinh tế thực chí vật, 1961, 1360).

Toàn cây chứa khoảng 3,5% chất béo, chừng 7% pecin.

Hạt chứa 6% chất béo.

D. Cong dụng và liều dùng.

Như trẹ đã nói nhã hương hầu như chưa được sử dụng làm thuốc ở nước ta. Tại các Châu Âu và Châu Mỹ người ta dùng chữa đau mắt: pha 5 đến 10g cỏ này trong một lít  nước sôi. Dùng nước này để rửa mắt.

Người ta còn chiết từ hoa hay ngọn cây này chất thơm dùng làm thơm thuốc lá: nngâm hoa hy cỏ với benzen. Bốc hơi benzen này sẽ được 0,10-0,12% chất thơm đặc, màu xanh lục, nguyên liệu chế cumarin dùng trong công nghiệp nước hoa

t và mùi nước hoa dễ chịu. Không phải chế biến gì khác

Loài melilotus non là một loại cỏ cho gia xúc ăn rất tốt do hàm lượng protein cao: 15 đến 20%, dễ tiêu hóa, hàm lượng muối khoáng cao. Tuy nhiên cũng như trên đã nói, loại cỏ này nếu bị thối và do một thứ nấm riêng thì có thể gây cho súc vật ăn phải bệnh xuất huyết nặng, có khi chết. Đó là do chất dicumarola có tác dụng ngược lại với vitamin K. Nó cản trở sự tạo thành prothrombaza trong máu và làm cho máu không đông được.

Chúng ta biết rằng sự đông máu tiến hành qua hai giai đoạn:

1/ sự có mặt của ion  canxi và thrombokinaza, chất prothrombaza sản xuất trong gan sẽ tạo ra chất thrombaza.

2/ chất thrombaza sẽ chuyển fibrinogen của huyết thanh (plasma) thành những cục fibrin. Như vậy vai trò chủ yếu là chất prothrombaza. Chất này được tạo thành trong cơ thể là nhờ vitamin K kết hợp với một thứ men trong gan. Chất dicumarol có ái lực đối với thứ men này mạnh hơn là vitamin K cho nên đã chiếm chỗ của vitamin K và cản không cho vitamin K hoạt động. Cũng nên chú ý rằng chất metyl-3-hydroxy-4-cumarin là một chất chỉ có một nhóm cumarin của chất dicumarola thì lại không có tác dụng gây xuất huyết. Ngược lại nó lại có tác dụng chống xuất huyết như vitamin K. Chúng ta thấy chỉ cần thêm một nhóm thứ hai nữa là tác dụng trái ngược hẳn và biến chất này thành một chất chống vitamin K. Chất dicumarola được dùng để phòng và chữa những bệnh nghẽn mạch, viêm tĩnh mạch, tắc mạch.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình