Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Thuốc nam
Tác dụng chữa bệnh đường tiêu hoá của cây Khoai riềng?

Còn gọi là cây dong riềng, khoai đao, khương vu, arrow – roo du Queensland, fécule de Tolomane.

Tên khoa học Canna edulis Ker.

Thuộc họ Dong riềng Cannaceae.

A. Mô tả cây

Cây cao 1,2-1,5m. Thân rể to thành củ,chứa nhiều tinh bột,lá thuôn dài 0.5m, rộng 20-25cm, màu lục tím, gân giữa to, gân phụ song song. Hoa sếp thành cụm ở ngọn cây, lưỡng tính không đều. Đài 3, tràng 3 dài. Nhị nhiều lép biến thành bản hình cánh, 1/1 nhị sinh sản, 1 cánh môi do nhị lép biến thành.

Mùa ra hoa: Mùa thu. Qủa nang mang nhiều gai mềm, chức nhiều hạt hình cầu đen

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây vốn có nguồn gốc ở Nam Mỹ và quần đảo miền tây Ấn Độ, mọc hoang và được trồng nhiều vùng nước ta để lấy củ cho người và cho gia súc. Điều thuận tiện là cây chịu bóng mát nên có thể trồng dưới bóng mà vẫn có tinh bột. Còn thấy mọc và trồng ở đảo Ăngti (có tên là Tôlôman), ở Pêru với tên là achira, ở châu Đại Dương (châu Úc) làm nguồn chế tinh bột dùng ăn và chế thuốc.

Thường người ta thu hoạch thân rể củ sau khi trồng 10 đến 12 tháng. Cần chế biến sớm ngay sau khi đào về để lấy tinh bột hoặc luộc ăn như khoai.

C. Thành phần hoá học

Trong củ ngoai riềng có tới 28% tinh bột. Hạt tinh bột khoai riềng có kích thước to, có khi lớn hơn 100um hình trứng, với rễ rõ nằm ở phần hạt tinh bột hẹp lại, trên mặt tinh bột có những vân cũng khá rõ. Đặc điểm của tinh bột khoai riềng khi nấu với nước có thể đông cứng lại như thạch. Ngoài ra trong khoai riềng còn có ít tanin

D. Công dụng và liều dùng

Khoai riềng được khai thác nhiều ở nhiều nước làm nguồn chế biến tinh bột với tên arrow-root của Si-erra Leone, của Port-Natal hay với tên fecule de basilier, fecule de Tolomane (tránh nhầm lẫn với ar-row-root chế biến từ củ dong-Maranta arundinacea L.)

Ở nước ta gần đây phát triển trồng làm nguồn tinh bột dùng ăn chế biến miến hay dùng làm tá dược trong kỹ nghệ dược phẩm.

Vị trong củ khoai riềng có ít tanin cho nên một số người nhạy cảm dễ bị táo bón khi ăn khoai riềng

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình