Tên khoa học Brassica oleracea L. var capitata DC.
Thuộc họ Cải Brassicaceae.
A. Mô tả cây
Cây thảo có lá áp sát vào nhau tạo thành một bắp sít chặt ở ngọn thân cây thành hình đầu với đường kính 25-30cm trước khi nở hoa. hoa thành chùm có phân nhánh. lá đài dựng đứng, nhị gần bằng nhau. quả loại cải, hẹp và dài, trên có một mỏ hình nón, mảnh vỏ lồi có 1-3 gân. hạt nâu, nhẵn, xếp thành một dẫy. lá mầm hình thận, có hai thuỳ, gập đôi (Hình 374).
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cải bắp được trồng ở khắp nước ta chủ yếu để lấy lá làm rau vào mùa đông. năm 1948 người ta phát hiện trong bắp cải tươi có chứa một chất chống loét (antipeptic ulcer diatary) còn gọi là vita-min U có khả năng chữa lành khá mau chóng các ổ loét nhân tạo gây được trong bộ máy tiêu hoá của chim, chuột bạch, do đó bắp cải được dùng làm thuốc chữa loét, viêm dạ dầy và ruột. dùng làm rau hay làm thuốc đều dưới dạng lá tươi, do đó chủ yếu thu hoạch vào mùa đông, hay ở những vùng khí hậu lạnh.
C. Thành phần hoá học
Trong bắp cải có 90% nước, 1,8% protit, 5,4% gluxit, 1,6% xenluloza, 1,2% tro. hàm lượng muối khoáng bao gồm 48mg% canxi, 31mg% P, 1,1mg% Fe. không thấy có caroten nhưng có 30mg% vitamin C, 0,04mg% vitamin PP, 0,06mg% vitamin B1, 0,05mg vitamin B2. như trên đã nói, năm 1948, Cheney đã phát hiện trong bắp cải có chất chống loét hay vitamin U là một muối của metyl menthionin sunfonium:
Một số nước Âu Mỹ và Trung Quốc đã tổng hợp muối metyl methionin sunfonium (ví dụ Trung Quốc chế chất metyl methionin sunfonium iodua) nhưng cũng gọi là vitamin U. tuy nhiên theo Mirakami (1956) thì những chất tổng hợp chưa hẳn đã giống chất vitamin U thực có trong bắp cải và một số rau và hoa quả như xà lách, rau muống, su hào (Brassia oleracea L. var. caulorapa) cải, chuối… hàm lượng vita-min U thay đổi tuỳ theo loại rau, cách trồng trọt, thu hái và bảo quản.
Vitamin U không bền vững, dễ oxy hoá, bị huỷ ở nhiệt độ cao, tan trong nước, chịu được lạnh, và có thể sấy khô.
D. Tác dụng dược lý
Nước ép rau tươi (xà lách, rau muống, su hào, bắp cải, chuối…) có tác dụng giúp đỡ, kích thích khá mạnh sự tái tạo của các tế bào ổ loét và do đó làm lạnh được các ổ loét đó.
Năm 1958, Viện quân y 108 (Hà Nội) có làm một số thực nghiệm chứng minh rằng nước ép hoa quả, nước ngũ cốc có tác dụng làm giảm và điều hòa sự co bóp của dạ dày.
Trên những cơ sở nghiên cứu ấy, hiện nay tại nhiều nước trên thế giới đang áp dụng nước ép bắp cải dưới nhiều hình thức để điều trị các bệnh loét dạ dày, tá tràng, viêm dạ dầy, ruột, đau đường mật, viêm đại tràng… thu được kết quả tốt.
E. Công dụng và liều dùng
Sau đây là cách dùng nước ép cải bắp có thể áp dụng ở mỗi gia đình:
Cải bắp bóc từng lá (không bỏ lá xanh), rửa nhiều lần nước cho sạch, dọc đôi từng lá theo sống lá. chần trong nước sôi. vớt ra để ráo nước. dùng bàn tay ép, ép lấy nước. bã bỏ đi. 1kg cải bắp tươi ép như vậy cho từ 500-700ml nước ép có màu vàng xanh, thơm vị ngọt, hơi hăng hắc. ở những nơi không có bàn ép, thì sau khi chần xong, cho vào cối sạch, giã nát rồi lấy vải màn hay gạc sạch lọc lấy nước. làm theo cách này, 1kg bắp cải cho từ 350-500ml.
Nước ép thu được nếu không có điều kiện bảo quản (tủ lạnh) rất chóng thiêu, vì trong nước cải bắp có hợp chất sunfat. liều dùng điều trị trong ngày trung bình 1.00ml chia làm nhiều lần uống mỗi lần 200-250ml, uống thay nước. có thể pha thêm đường, muối, uống nóng hay lạnh tuỳ theo khẩu vị. mỗi đợt điều trị là 2 tháng kèm theo chế độ dinh dưỡng và lao động thích hợp. có những trường hợp loét tá tràng 14-20 năm cũng chữa được lành. nhưng đối với ổ loét quá sâu thì tác dụng ít.
điều trị bằng nước ép cải bắp không có biến chứng gì và có thể kết hợp với các thuốc chữa dạ dày và tá tràng khác. và không có phản chỉ định. |