Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Cây Mỏ quạ dùng làm thuốc đắp vết thương rắn rết cắn thế nào?

Còn gọi là hoàng lồ, vàng lồ, xuyên phá thạch. Tên khoa học cudrania tricupidata (carr) bur(1) thuộc họ dâu tằm Moraceae.

A. Mô tả cây

Cây nhỏ thân mền yếu nhiều cành tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khỏe, có nhựa mủ trắng, rể hình trụ có nhiều nhánh mọc ngang rất dài nếu gặp đá có thể xuyên qua được (do đó có tên xuyên phá thạch có nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màu tro nâu, trên có nhiều bì khổng màu trắng, thân và cành có rất nhiều gai, gai già hơi cong  xuống trông như mỏ con quạ (do đó có tên cây mỏ quạ). Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng, mép nguyên. Nhấm có vị tê tê ở lưỡi ( đặc điểm). Cụm hoa hình cầu, đường kính 7-10mm, màu vàng nhạt. mọc thành đôi hay mọc đơn độc ở kẻ lá. Hoa đơn tính, đực cái khác gốc, mùa hoa tại Hà nội vào tháng tư quả màu hồng hợp thành quả kép. Mùa quả tháng 10 đến 11.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây mỏ quạ mọc hoang và được trồng làm hàng rào ở những đồi hoang hay đất vườn. Cắt lấy những đoạn thân bánh tẻ đường kính 1-2cm, dài 15-25cm, cắm nghiêng, thường xuyên tưới nước cho tới khi bén rễ thì thôi.

Thường dùng lá tươi, có khi hái cả cành về nhà mới bức lá riêng. Còn dùng rễ, đào về rửa sạch đất, cắt thành từng mẫu 30-50cm, phơi hay sấy khô.Vỏ ngoài vàng đất, vết cắt màu vàng nhạt, vị hơi tê tê.

C. Thành phần hóa học

Mới biết có hợp chất flavonoit

D. Công dùng và liều dùng

Lá mỏ quạ tươi gần đây được dùng chữa vết thương phần mềm theo kinh nghiệm của cụ lang long(Hải Dương) như sau:chủ yếu dùng lá mỏ quạ tươi, rồi tùy theo vết thương, thêm một hai vị khác. Lá mỏ quạ tươi lấy về rữa sạch, bỏ cọng giã nhỏ đắp vào vết thương. Nếu vết thương xuyên thũng thì phải đắp cả hai bên, băng lại. Mỗi ngày rữa và thay băng một lần.  thuốc rữa vết thương dùng là trầu không nấu với nước (40g lá trầu, 2lít nước, nấu sôi để nguội thêm vào đó 8g phèn phi, hòa tan, lọc và dung rữa vết thương).Sau 3-5 ngày đã đỡ, khi có hai ngày mới cần rữa và thay băng một lần.

Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đầy thịt thì thay thuốc sau:lá mỏ quạ tươi và lá thòng bong(xem vị này)hai vị bằng nhau giã lẫn cả hai thứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rữa và thay băng một lần. 3-4 ngày sau lại thay thuốc sau:lá mỏ quạ tươi, la thòng bong, lá hàn the(Đesmodium heterophyllum DC) 3 thứ bằng nhau, cứ ba ngày thay băng một lần để vết thương chóng lên da non.

Sau 2-3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bột chế bằng phấn cây cau (sao khô)20g, phấn cây chè (sao khô)16g, ô long vĩ (bồ hóng)8g phèn phi 4g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vết thương rồi để yên cho vết thương đóng vẩy và róc thì thôi (tập chí đông y và sức khoẻ, 4/1966, 5/1966).

Rễ được dùng trong nhân dân ta và nhân dân Trung Quốc(Quảng Tây)làm thuốc khứ phong, hoạt huyết phá ứ, chữa ứ tích lâu năm bị đánh bị thương, phụ nữ kinh bế.  ngày dùng 10-30g rễ dưới dạng thuốc sắc.Theo kinh nghiêm nhân dân, phụ nữ có thai không dùng được.

Chú ý nghiên cứu

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình