Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Những lý thuyết về nguyên nhân gây hen suyễn?

Những nghiên cứu về bệnh hen suyễn đã được nhân lên trong vài thập kỷ qua. Đó chính là do sự gia tăng nhanh chóng của số người bị mắc bệnh. Phân tích nhiều nghiên cứu cho thấy hai hệ thống của cơ thể mà có ảnh hưởng đến hệ hô hấp và liên quan đến phổi gồm:

(a) Bộ máy bảo vệ tự nhiên của cơ thể (hệ thống miễn dịch)

(b) Hệ thần kinh.

Hai lý thuyết chính được đề nghị dựa trên những hệ thống này để định nghĩa hen suyễn một cách chính xác hơn:

(a) Lý thuyết bao vây beta liên quan đến hệ thần kinh.

(b) Lý thuyết dị ứng liên quan đến hệ thống miễn dịch.

Sự hiểu biết sâu hơn về những hệ thống và lý thuyết này giúp phát triển phương pháp điều trị và chữa trị hen suyễn.

Lý thuyết bao vây beta:

Hệ thần kinh bao gồm não, dây cột sống, và những dây thần kinh điều khiển rất nhiều chức năng của cơ thể. Những cơ quan thần kinh ở nhiều phần khác nhau của cơ thể có thụ thể đặc biệt nhận biết những tín hiệu từ môi trường và gửi tới não qua dây cột sống. Não nhận và phân tích những tín hiệu và thông điệp này, sau đó gửi trả phản hồi của não theo dạng những mệnh lệnh cần thiết đi qua dây cột sống tới mạng lưới thần kinh rộng lớn.

Hệ thần kinh có 2 phần:

(a) Hệ thần kinh trung ương gồm não và dây cột sống.

(b) Hệ thần kinh ngoại biên bao gồm những dây thần kinh bắt nguồn từ não và dây cột sống.

Hệ thần kinh ngoại biên gồm hệ thần kinh tự chủ điều khiển tất cả những hành động không ý thức của mạch máu, các cơ quan và các phần khác của cơ thể. Hệ thần kinh tự chủ có hai nhánh chính:

(a) Hệ thần kinh giao cảm chuẩn bị hành động cho cơ thể bằng cách tăng nhịp tim và kích thích các cơ quan.

(b) Hệ thần kinh đối giao cảm thực hiện theo cách đối nghịch với hệ thần kinh giao cảm và tăng cường độ hoạt động trong lúc ngủ hơn.

Trong phổi, hệ thần kinh giao cảm kích thích đường hô hấp mở ra trong khi hệ thần kinh đối giao cảm thắt chặt lại và làm hẹp đường dẫn khí. Nếu phổi bình thường thì cả hai hệ thống này phối hợp nhịp nhàng hiệu quả với nhau và giữ cho đường dẫn khí mở. Nhờ đó những luồng khí ra vào phổi một cách dễ dàng. Khi bị hen suyễn, hệ thần kinh đối giao cảm hoạt động trội hơn. Kiểu bất cân bằng giữa hai phần của hệ thần kinh tự chủ tạo ra sự thu hẹp đường hô hấp. Ngoài ra một số hóa chất được sinh ra bởi hệ thần kinh đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hen suyễn.

Tất cả các hệ thần kinh của cơ thể tạo ra một chất hóa học gọi là neurotransmitters dùng trong việc giao tiếp giữa các hệ thần kinh khác nhau trong cơ thể. Mỗi loại hệ thần kinh tự chủ tiết ra một loại neurotransmitters khác nhau. Hệ thần kinh giao cảm bài tiết ra epinephrine và adrenaline trong khi hệ thần kinh đối giao cảm bài tiết ra acetylcholine.

Ở đầu cuối thần kinh đặc biệt nơi đáp ứng lại nhiều loại kích thích khác nhau gọi là thụ thể. Có ba loại thụ thể giao cảm:

(a) Alpha.

(b) Beta.

(c) Beta2.

Những thụ thể này kết hợp với nhau kiểm soát tất cả các chức năng của cơ thể, đặc biệt là huyết áp, nhịp tim và đóng mở đường hô hấp.

Thụ thể alpha nhận các xung thần kinh truyền tới tim và phổi làm tăng nhịp tim, co đường hô hấp lại và tăng sự bài tiết đờm. Tuy nhiên phản ứng này của thụ thể alpha trên phổi thì lại không quan trọng lắm đối với bệnh hen suyễn.

Thụ thể beta nhận các xung lực ảnh hưởng đến cơ tim làm tăng nhịp tim và huyết áp.

Thụ thể beta2 làm giãn cơ đường hô hấp và giảm sự bài tiết đờm ở thành trong đường dẫn khí. Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng người bị hen suyễn có thụ thể beta2 bất bình thường nên các xung lực từ não không đến được

Điều này kích thích những thần kinh đối giao cảm phản ứng quá mạnh làm thắt lại đường dẫn khí.

Lý thuyết dị ứng:

Điều này liên quan đến hệ thống miễn dịch (bộ máy bảo vệ tự nhiên của cơ thể) Hệ miễn dịch có ba thành phần chính:

(a) Hạch bạch huyết.

(b) Tủy xương.

(c) Tuyến ức.

Hạch bạch huyết là những kết cấu hình oval nhỏ lọc chất lỏng mà được gọi là bạch huyết và chống nhiễm trùng.

Tủy xương là loại mô mềm chuyên dụng nằm ở vùng rỗng trong xương. Tuyến ức nằm ở phía trên xương lồng ngực và là tuyến trung tâm của hệ bạch huyết.

Ba thành phần này của hệ miễn dịch kết hợp tạo ra các tế bào hồng cầu và bạch cầu. Những tế bào hồng cầu vận chuyển oxy từ phổi đến nhiều thành phần khác nhau của cơ thể và vận chuyển carbon dioxide từ tất cả các phần của cơ thể trở về phổi. Những tế bào bạch cầu bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm trùng.

Có nhiều loại tế bào bạch cầu, một trong số đó là tế bào bạch huyết. Có hai loại tế bào bạch huyết:

(a) ‘Tế bào B’.

(b) ‘Tế bào T’.

Tế bào T thải ra một hóa chất gọi là cytokine tiêu diệt kháng nguyên. Tế bào B sản xuất ra kháng thể nhận biết kháng nguyên và giúp phần còn lại của hệ miễn dịch tiêu diệt kháng nguyên. Những tác nhân gây bệnh

(kháng nguyên) này có thể là vi khuẩn, vi rút hay những chất bên ngoài

Kháng thể đặc trị những tác nhân gây bệnh. Điều này có nghĩa là kháng thể dùng cho một loại tác nhân gây bệnh này sẽ không có hiệu quả đối với các loại khác. Kháng thể cũng giúp cơ thể nhớ những tác nhân này và tiêu diệt nếu chúng quay trở lại. Nhờ đó chúng ngăn không cho bệnh tái phát.

Ngay khi một tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể, tế bào bạch cầu sẽ sinh ra tế bào T để chống lại sự xâm lược của tác nhân này. Tế bào T gặp các tác nhân xâm lược và giết chúng. Cytokine được sản sinh ra từ tế bào T gửi tín hiệu tới tế bào B để nhận biết tác nhân gây bệnh hoặc kích thích chúng sinh ra trong tủy xương. Sự gia tăng tế bào B làm tăng lượng kháng thể.

Có nhiều loại kháng thể, một trong số đó là Immunoglobulin E hay IgE là một loại có hại. Dù cho cơ thể không cần IgE nhưng nó vẫn được sản xuất ra. Ở một số người, tế bào B thải ra một lượng IgE ở mức cao bất thường. Kết quả là hệ thống miễn dịch phản ứng quá mạnh ngay cả với những chất bình thường. Những loại IgE khác nhau được sinh ra để đáp ứng với những loại chất khác nhau.

Do đó bạn sẽ có một loại kháng thể khác nhau cho mỗi chất mà bạn nhạy cảm với chúng. Bất cứ loại nào trong những chất này đều có thể gây ra dị ứng làm ngòi cho cơn hen suyễn.

Mỗi người có hàng triệu những tế bào nhỏ gọi là tế bào mast trong nhiều phần khác nhau của cơ thể. Nó cũng có mặt trong mũi, đường hô hấp và da. Những tế bào mast chứa nhiều hột nhỏ chứa 3 loại hóa chất. Những hóa chất này được tạo ra để chữa các vết thương và nhiễm trùng. Khi có một chất gây dị ứng, kháng thể IgE kết hợp với tế bào mast và 3 loại hóa chất rồi được phóng thích vào mô bị nhiễm. Điều này gây ra đỏ và bị sưng ở mô. Khi những tế bào mast trong đường hô hấp thải ra các hóa chất thì chúng gây ra thở khò khè, ho, sưng thành trong đường hô hấp, tăng sự bài tiết đờm và làm co thắt đường dẫn khí. Cuối cùng dẫn đến hen suyễn.

Một trong những chất quan trọng mà tế bào lớn thải ra là histamine. Đây là lý do tại sao nên dùng thuốc chống lại histamine khi bị dị ứng. Những thuốc này gọi là thuốc chữa dị ứng.

Một loại tế bào bạch cầu khác gọi là Eosinophils cũng đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra hen suyễn do chúng thải ra những chất làm tăng độ nhạy cảm của đường hô hấp dẫn tới viêm nhiễm

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình