Lươn là một loài cá sống ở những nơi nước tĩnh, mực nước nông, lớp bùn đáy tương đối nhiều.
Lươn nuôi thích hợp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Chú ý: Trước khi thả lươn vào chuồng, ao nuôi thì phải tắm bằng dung dịch nước muối loãng 5 phần nghìn thì trong quá trình nuôi sẽ hạn chế được một số bệnh.
1. Chuồng nuôi:
Có thể nuôi trong bể xi măng diện tích khoảng 1 – 2 m2 có lót cao su ở dưới, nuôi trong ai đất, thậm chí có thể cải tạo chuồng nuôi heo cũ để nuôi lươn.
Làm chuồng nuôi lươn: Chuồng nuôi cao khoảng 1m, có dải nylon kín khắp chuồng, sau đó đổ đất sét bùn xuống đáy chuồng nuôi (loại bùn này phải có độ phèn ít để tránh bị bệnh hoặc có thể rắc vôi bột để làm giảm độ phèn), lớp bùn đáy này phải sạch, nhuyễn và cao khoảng 15 – 20cm. chuồng nuôi phải không bị mất nước.
Mỗi chuồng nuôi phải có ụ đất chiếm khoảng ¼ diện tích chuồng và ụ đất này phải cao hơn mức nước 5 – 6 cm để cho lươn làm tổ. Tổ của lươn có 2 cửa, 1 cửa thông lên trên để lươn nằm thở và cửa thông xuống dưới đáy để lươn thoát hiểm. Vì vậy ụ đất đắp phải đạt yêu cầu là dài gấp 2 – 3 lần chiều dài của con lươn vì nó phải chui lọt cơ thể và phải trồng một ít cỏ lên trên để cho mát. Còn mặt nước có thể thả một ít bèo tây hoặc những cây sống được ở trên mặt nước.
Chiều sâu của nước tối thiếu phải bằng chiều dài của con lươn. Mực nước thấp nhất so với mặt bùn đáy ít nhất khoảng 20cm.
Chuồng nuôi nên có gờ để tránh lươn bò ra ngoài và nên lót một lớp cao su đối với chuồng nuôi bằng xi măng để tránh lươn bị trầy xước.
Nguồn nước dể nuôi lươn tốt nhất là nước sông hoặc nước mương. Nước không được nhiễm bẩn hay thuốc trừ sâu.
Sau mỗi lần nuôi lớp bùn ở dưới đáy có thể đem phơi cho khô để lần sau nuôi tiếp.
2. Thức ăn cho lươn và cách cho lươn ăn:
Thức ăn tự nhiên của lươn tương đối phong phú: Bao gồm những động vật thân mềm sống ở bùn đáy hoặc những con trùng đỏ và một sốt loại ốc vỏ mềm, tép, cua, ếch. Đối với con tép nhỏ thì có thể thả trực tiếp cho ăn, còn đối với cua, ốc. . . thì phải đập nát, bỏ chết rồi mới cho ăn vì lươn thích ăn thức ăn có mùi tanh.
Lượng thức ăn nhiều hay ít phụ thuộc vào trọng lượng của lươn và chiếm tối đa là 5% trọng lượng thân (Ví dụ : Nếu thả 100kg lươn giống thì cho ăn tối đa là 5kg thức ăn), không nên cho lươn ăn quá nhiều vì nếu ăn không hết sẽ làm cho nước bị thối.
Không nên cho lươn ăn 1lần/ ngày, có thể cho ăn 2-3 lần/ngày thì hiệu quả sẽ cao hơn. Và nên chọn thời điểm để cho lươn ăn, buổi sáng nên cho ăn trước lúc mặt trời mọc và buổi chiều nên cho ăn trước lúc mặt trời lặn. Thường thì buổi sáng lươn ăn ít hơn buổi chiều nên buổi sáng chỉ nên cho ăn 2kg thức ăn/ 100kg lươn giống; còn lại để buổi chiều.
Thức ăn không nên đổ dồn vào 1 chỗ mà rải ra làm 3 – 4 chỗ. Khi cho ăn nên để thức ăn trong cái sảo nhỏ và thả xuống mặt nước để kiểm tra lượng thức ăn thừa thiếu. Nếu lươn ăn hết thì thức ăn cho hơi ít, nếu lươn ăn còn thừa 1 ít là lượng thức ăn cho vừa đủ.
Nếu trời nắng nóng hay mưa kéo dài thì có thể giảm lượng thức ăn hoặc ngừng cho ăn vì nắng nóng, mưa nhiều thì lươn sẽ ở trong tổ nhiều hơn là đi kiếm ăn.
Đặc biệt phải thường xuyên kiểm tra nhiệt độ nước (dùng nhiệt kế), nếu nhiệt độ dưới 20-22 và lớn hơn 30 thì nên ngừng cho ăn.
3. Sinh trường và sinh sản.
Lươn từ lúc sinh đến 200g (khoảng 8 tháng) tất cả đều là lươn cái, từ 200g trở đi thì có một số con chuyển thành lươn đực.
Lươn đẻ rải rác quanh năm nhưng chú ý nhất là vào thời điểm từ tháng 6 – 8 thì đẻ nhiều do mưa nhiều, nước lên.
Mỗi lần đẻ, mỗi con lươn chỉ đẻ 200 – 300 trứng. Nếu sử dụng phương pháp sinh sản nhân tạo thì phải dùng thuốc với số lượng lớn, như vậy giá thành sẽ rất cao và rất khó bán. Cho đền nay ở Việt Nam vẫn chua đáp ứng được.
Cho nên nguồn nhân giống chủ yếu dựa vào tự nhiên.
Khi mua giống ngoài tự nhiên thì tìm nơi cung cấp hoặc người bán tin tưởng vì thực tế lươn bán ở ngoài thường mắc một số bệnh hoặc dùng thước để bắt. Sau khi mang về không có cách nào phát hiện ra và phải 1 – 2 tháng sau nó mới chết. Khi bắt lươn khoảng 50g trở lên thường người ta hay vuốt nhẹ sống lưng để lươn khỏi bò đi mất thì những con này nuôi sẽ không lớn và từ từ cũng sẽ chết.
4. Bệnh và cách phòng trị một số bệnh lươn thường ít mắc bệnh.
Tắm cho lươn giống trong dung dịch nước muối nồng độ 5 phần nghìn trước khi thả nuôi để hạn chế phần lớn bệnh. Nếu lươn mắc bệnh thì dùng thuốc tương tự cho cá.
Nếu mật độ nuôi quá dày (quá 40 con/m2), nguồn nước bị ô nhiễm nắng nóng liên tục sẽ làm lươn mắc bệnh phù đầu (triệu chứng : đầu to hơn bình thường, ấn vào thấy có hơi và chui ra khỏi tổ). Loại bệnh này hiện chưa có thuốc chữa, chỉ có thể thay nước trong bể nuôi cho mát và giảm lượng thức ăn từ từ.
Bệnh ký sinh trùng bên trong: khi cho ăn tôm, ếch, ốc. . . đương nhiên lươn sẽ bị nhiễm một số loại giun sán. Có thể dùng thuốc của người hoặc của gia súc để trị với liều lượng rất nhỏ và pha vào với thức ăn nhưng tuyệt đối không được để lại mùi vì như vậy lươn sẽ không ăn.
Bệnh chết hàng loạt (bệnh nhiễm ở bên trong) thì phải mang tới nơi có chuyên môn để xét nghiệm xác định bệnh và có biện pháp điều trị thích hợp. Ngoài ra có thể tự xác định bệnh và có biện pháp điều trị thích hợp. Ngoài ra có thể tự xác định bằng cách khi con lươn sắp chết bắt con lươn lên kiểm ra lỗ rốn của nó, nếu thấy sưng đỏ và ấn nhẹ thấy chảy ra nước màu hồng thì những con lươn này đã bị nặng lắm rồi và chắc chắn sẽ chết.
Bệnh nấm và lở loét: Thường do bị trây xước làm cho một số vi khuẩn, nấm xâm nhập vào cơ thể. Có thể tắm bằng nước muối 5 – 7 phần nghìn và bôi thuốc kháng sinh lên nơi bị trầy.
Bệnh đỉa: do một số loài ký sinh ở trong mang, máu gây ra. Bệnh này có thể dùng thuốc tím nhưng rất khó chữa.
Chú ý: Để tránh bệnh thì tuyệt đối nước phải sạch, thức ăn không được quá thừa
|