Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Phẫu thuật và điều trị tật khúc xạ như thế nào?

 

Sato (1953) là người đầu tiên mô tả kỹ thuật mổ dùng dao cong nhỏ khía ở mặt sau giác mạc để điều trị cận thị và loạn thị nặng. Do loại phẫu thuật này có quá nhiều biến chứng: phù giác mạc, viêm giác mạc bọng, v.v..., nên phẫu thuật Sato đã bị lãng quên.

Ngày nay với những hiểu biết về cấu trúc giải phẫu, về sinh lí học của giác mạc, ngành nhãn khoa thế giới đã đạt được những thành tựu mới trong lĩnh vực mổ điều trị tật khúc xạ. Sau đây xin giới thiệu một số phẫu thuật để điều trị: cận thị, viễn thị và loạn thị nặng.

Điều trị cận thị bằng cách khía giác mạc hình nan hoa.

Để điều trị cận thị, trước đây Sato đã tiến hành khía giác mạc ở mặt sau; để làm giảm bán kính độ cong giác mạc, Fedorov đã dùng phương pháp rạch hình nan hoa ở mặt trước giác mạc.

Khía hình nan hoa chừa vùng trung tâm hình tròn để điều trị cận thị.

Chuẩn bị mổ: Trước khi tiến hành các phẫu thuật điều trị tật khúc xạ phải dùng giác mạc kế (kératomètre) để đo các kích thước của giác mạc (bán kính độ cong, điôp giác mạc).

Mọi việc chuẩn bị khác (rửa lệ đạo, nuôi cấy vi khuẩn...) tiến hành như mổ đục thủy tinh thể thủy tinh thông thường, gây tê, nhỏ dicain 1%, tiêm novocain 4% dưới kết mạc.

Kỹ thuật mổ: Sau khi tiêm tê, dùng khoan tròn 3mm đánh dấu vùng trung tâm giác mạc. Từ bờ của đường khoan này, dùng dao kim cương (Hình 2) rạch những đường thẳng hình nan hoa đến tận rìa giác mạc.

Đường rạch khía này phải: thật thẳng và trơn; xuyên qua 8/10 bề dày giác mạc, đối xứng và phân bố đều.

Số lượng đường khía này tùy thuộc vào độ cận thị. Tác dụng của các khía này là làm cho giác mạc, nhất là vùng trung tâm đẹt xuống, nhờ đó sẽ làm giảm độ cận thị. Cần nhớ là lần đầu chỉ nên khía một số rạch tối thiểu vì: Nếu sau mổ vài tháng, độ cận thịvẫn còn nhiều có thể khía bổ sung; những đường rạch trên giác mạc sẽ để lại sẹo khía mỏng.

Săn sóc hậu phẫu; thay băng hàng ngày, nhỏ các thuốc kháng sinh; coctison; giãn đồng tử.

Kết quả: Fedorov đã tiến hành phẫu thuật này cho 546 mắt (1980), độ cận thị trung bình trước mổ là -4,20 điôp, sau mổ chỉ còn -2,77 điôp. Bores (Hoa Kì) đã áp dụng kinh nghiệm của Fedorov đạt kết quả khả quan: đã mổ 160 mắt cận thị: độ cận thị trung bình trước mổ: -4,60; độ cận thị trung bình sau mổ: -0,83.

Điều trị viễn thị bằng phương pháp cắt khía thẳng 4 góc giác mạc (radial wedge resection).

Để làm giảm độ viễn thị, Barraquer và Girard (1981) nghiên cứu nhiều phương pháp nhằm tăng độ cong của giác mạc: Các tác giả đã thử ứng dụng nhiều cách, nhưng chỉ có phương pháp cắt khía thẳng 4 góc giác mạc là đưa lại kết qủa tương đối tốt: 50-60% trường hợp viễn thị nặng sau mổ đội viễn thị giảm, thị lực tăng.

Chỉ định: Viễn thị nặng; đã mổ đục thể thủy tinh

Chuẩn bị mổ: Dùg giác mạc kế đo trước: bán kính độ cong giác mạc, số điôp giác mạc, v.v... Các xét nghiệm khác tiến hành như thường lệ.

Kỹ thuật cắt khía thẳng 4 góc giác mạc:

Tiêm tê sau nhãn cầu: novocain 4%. Nhỏ dicain 1%, 3 lần. Tiêm novocain 4% dưới kết mạc.

Sau khi cố định nhãn cầu, dùng dao kim cương cắt khía bốn đường thẳng.

A: Cắt khía thẳng 4 góc để tăng độ cong giác mạc (ở rìa và trên giác mạc chu biên).

B: Sau khi khâu và vùi chỉ: Sâu 8/10 chiều dày giác mạc; nếu kéo dài sẽ giao nhau ở trung tâm giác mạc, tạo thành 4 góc vuông; nằm trên vùng rìa phân đều ở 4 điểm XIIh, IIIh, VIh và IXh.

Mỗi đường dài 6mm thẳng gốc với rìa giác mạc, 2mm nằm bên trong vùng rìa. Trên mỗi đường khía đặt 3 mũi chỉ nylon 10,0. thắt và vùi chì (hình 3), tiêm kháng sinh dưới giác mạc.

Điều trị loạn thị nặng bằng phản thuật làm chùng giác mạc.

Có nhiều phương pháp khác nhau để làm giảm độ loạn thị bằng phẩu thuật: đơn giản nhất là phương pháp cắt khía để làm chùng (relaxing) những kính tuyến gây loạn thị.

Sau khi gây tê dùng dao kim cương cắt vòng cung trên một góc giác mạc (sau 80% chiều dây giác mạc). Đường khía phải : Thẳng góc với kính tuyến có độ dốc lớn hơn; nằm trên giác mạc chạy song song và cách ria chừng 2mm.

Đường cắt trên giác mạc sẽ nhanh chóng liền miệng với tổ chức sẹo của biểu mô và với các tế bào xơ non (fibroblaste) đến từ vùng mô nhục lân cận.

Ngày nay, nhờ có giác mạc kế lắp trên kính hiển vi phẫu thuật, người ta có thể xác định được độ loạn thị ngay trên bàn mổ.

Sau mổ nếu chưa đạt yêu cầu, sau khi kiểm tra lại, có thể cắt một khía thứ hai ở góc đối diện với đường cắt thứ nhất. Sau đó nếu vẫn chưa điều chỉnh đủ, có thể cắt khía thêm mỗi bên một đường song song với 2 cung cũ hình thành ra hai cung kép.

Khía song song hoặc hình nan hoa

Fedorov sử dụng những đường rạch song song hoặc hình nan hoa để điều chỉnh loạn thụ, dĩ nhiên những đường khía này phải chừa vùng trung tâm giác mạc.

Nếu khía theo hình nan hoa thì phải thực hiện theo trục của kinh tuyến dẹt hơn của giác mạc.

Phải rạch sâu đến 80% chiều dày của giác mạc. Đường rạch giác mạc đi từ ngoài vùng rìa đến tận gần trục thị giác.

Hiệu lực của những đường rạch giác mạc được xác định bằng một giác mạc kế phẫu thuật. Sau ba tháng, kiểm tra lại nếu thấy cần có thể rạch bổ sung.

Săn sóc hậu phẫu: thay băng hàng ngày, nhỏ thúoc giãn đồng tử và kháng sinh.

Về lâu dài các đường khía ở giác mạc sẽ để lại những sẹo trắng mờ. Theo Eugène và cộng sự (1984) thì sau 24 tháng trên 78% số ca mổ ở trung tâm giác mạc sẽ xuất hiện những đường nhãn hình sao

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình