Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
-   Hỏi đáp về các căn bệnh
-   Thuốc nam
-   Thuốc bắc
-   Thuốc tây
-   Y học Việt Nam
-   Y học Thế giới
-   Ngừa và điều trị bệnh
-   Chăm sóc sức khoẻ
-   Hỏi đáp về giới tính
-   Nuôi dạy trẻ
-   Cấu tạo con người
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
KHOA HỌC Y DƯỢC : Hỏi đáp về các căn bệnh
Đoán bệnh qua nước tiểu như thế nào?

ớc tiểu là dịch bài tiết của tạng thận. Đó là do sự chuyển hoá trong cơ thể sản sinh ra thông qua hệ tiết niệu, theo niệu đạo bài xuất ra ngoài.

Trong nước tiểu, nước chiếm 96- 99%. Các chất khác đại bộ phận là phế vật như acituric, axetat axeton. Lượng nước tiểu của người bình thường mỗi ngày là 1000- 2000 ml. Trong đó nam giới mỗi ngày 2000 ml, nữ giới 1000- 1500ml. Màu nước tiểu màu vàng nhạt, trong suốt không có hiện tượng đục. Nước tiểu vừa mới đái ra, có mùi cỏ thơm đặc thù, để lâu, vì bị phân giải mà xuất mùi amôni- ac (NH3).

Nước tiểu là một loại do chuyển hoá của cơ thể bài xuất, sự biến đổi thành phần và tính trạng nước tiểu không những phản ánh bệnh của bản thân tiết niệu, mà hầu như các hiện tượng khác thường của cơ thể đều dẫn tới biến đổi trong nước tiểu.

Vì vậy, trong lâm sàng, sự kiểm tra nước tiểu có giá trị tham khảo vô cùng quan trọng.

Sau đây xin giới thiệu một số phương pháp giản tiện để xem nước tiểu mà biết bệnh.

1.Xem màu nước tiểu

a.Nước tiểu không màu

Có khả năng là bệnh tiểu đường, viêm thận mạn tính cách  quãng, tín hiệu của chứng đái tháo. Tuy nhiên, cũng có khả năng là uống nhiều nước, cần chú ý giám biệt.

b.Nước tiểu màu trắng

Nước tiểu trắng thường gặp ở chứng đái mủ, chứng loét vú và chứng đái muối …

Đái mủ là do bệnh cảm nhiễm hoá mủ đường tiết niệu  nặng dẫn tới. Nước tiểu có màu trắng sữa nước tiểu có mủ thường gặp ở bệnh viêm bể thận, viêm bàng quang, áp xe thận, viêm niệu đạo hoặc là sỏi thận nghiêm trọng.

Nước tiểu bệnh loét vú là một chứng chủ yếu của bệnh tỵ trùng (còn gọi là bệnh giun chỉ ) (1) ((1) Giun chỉ là loại kỳ sinh trùng ký sinh trong máu, thể rất nhỏ gây ra tắc nghẽn mạch bạch huyết và phù cũng ở các tổ chức.Màu nước tiểu trắng như sữa bò là do đường ruột hấp thu dịch loét vú (dịch thể mỡ sau khi bị sa vông hoá) chỉ có thể ngược dòng đến ống lâm ba của hệ tiết niệu làm chúng trướng lên và vỡ, khiến dịch loét vú tràn vào nước tiểu mà xuất hiện đái ra mủ.

Nước tiểu do loét vú phát ra theo từng trận. Trong nước tiểu này có hồng cầu, gọi là chứng loét vú huyết niệu. Trong máu và nước tiểu bệnh nhân mắc bệnh này có khi tìm thấy sợi tơ non. Đó là ấu trùng giun chỉ

Nước tiểu muối hay phát sinh ở trẻ em, thường gặp về mùa đông. Tiểu tiện có màu nước vo gạo phần nhiều là trong nước tiểu có nhiều muối phôt phát hoặc muối u rat, sau khi đái các muối đó dễ trầm lắng (kết tủa). Nếu tiểu tiện vào cái bình nóng thì lập tức biến ra trong suốt. Đái muối thuộc loại hiện tượng sinh lý bình thường, không cần chữa cũng khỏi, mấu chốt là nên uống nhiều nước lã đun sôi để nguội.

Ngoài tiểu tiện màu trắng ra, có người ở miệng niệu đạo lưu xuất niêm dịch màu trắng . Sao lại không xét sự cố này? Đương nhiên, nước tiểu trắng và miệng niệu đạo chảy ra niêm dịch trắng là hai sự cố có tính chất khác nhau  nhưng đồng dạng là niệu đạo bài tiết ra dịch thể màu trắng, tạm thời quy chúng là chứng “nước tiểu trắng”. Nếu tiến hành phân tích, có thể giám biệt được. Nam giới trưởng thành ngẫu nhiên có niêm dịch theo nước tiểu bài xuất ra là điều bình thường, là vì niệu đạo nam giới là đường thông chung để bài xuất  nước tiểu và bài xuất tinh dịch. Khi xung quanh tính dục cơ thể kích thích tiền liệt tuyến ở sau biểu đạo nơi cổ bàng quang làm xuất dịch của tiền liệt tuyến cũng màu trắng  từ niệu đạo mà ra ngoài. Nhưng nếu thường xuyên có niêm dịch trắng từ miệng niệu đạo bài xuất hoặc khi bài tiết niêm dịch kèm theo các chứng khác thì là không bình thường, nguyên nhân thường gặp là:

+Viêm tiền liệt tuyến

Thường gặp ở thanh niên chưa kết hôn, có quan hệ nhất định với nghiện rượu, gặp lạnh, quá độ thủ dâm, xung đột tình dục. Thường là khi xung đột tình dục hoặc buổi sáng sớm có ít chất phân tiết từ miệng niệu đạo chảy ra hoặc đính đóng ở miệng niệu đạo

+Bệnh lậu

Do là sinh hoạt tình dục không sạch hoặc đi vệ sinh chung bồn và công cụ dùng nước, hoặc cùng tắm rửa với bệnh nhân lại. Đó là một loại bệnh phong tình (do tình dục)

Nói chung, sau khi nhiễm bệnh 2- 3 ngày có thể phát bệnh. Sơ phát thì miệng niệu đạo sưng đỏ, có niêm dịch dính màu trắng tràn ra. Buổi sáng, khi rời giường, vật  dính có thể đóng vẩy làm tắc miệng niệu đạo. Khi đã phát hiện nên kịp thời điều trị  nếu không thì hậu hoạn vô cùng.

+Viêm niệu đạo không có lậu khuẩn

Đây là một loại bệnh rất lưu hành. Theo thống kê nước ngoài ước tính có đến 50%. Bệnh này hay phát ở thanh niên dưới 25 tuổi. Biểu hiện điển hình là niệu đạo ngứa, đái luôn, đái gấp, đái đêm. Miệng niệu đạo có niêm dịch dính chảy ra. Nhưng không ít bệnh nhân nhất là bệnh nhân nữ thiếu chứng trạng điển hình làm trì hoãn việc chữa trị khiến cho nguồn bệnh xâm nhập tử cung, vòi trứng, dẫn đến viêm khung chậu tạo thành chứng vô sinh nữ.

c.Nước tiểu vàng

Là nước tiểu màu vàng hoặc vàng sẫm. Nguyên nhân là:

-Ăn cà rốt, dùng thuốc hạch hoàng tố (Prolan B), đại hoàng, thuốc “ly đặc linh” , các thuốc Đông tây dược làm cho nước tiểu biến thành tình huống vàng. Khi thôi dùng thuốc thì chứng đó tiêu trừ, miễn phải bận tâm. Chứng phát sốt thường gặp, hoặc bệnh nhân có chứng bệnh thổ tả nên nước ra theo mồ hôi và phân tiện bài xuất, do đó nước tiểu giảm và cô đặc nhưng niệu sắc tố không biến đổi, như vậy màu nước tiểu rất vàng là rõ nét.

Ngoài ra, có loại nước tiểu màu vàng như trà đặc, không phải do nguyên nhân nói trên, mà là do gan và túi mật có bệnh. Nguyên là đởm trấp bài tiết ra ngoài thông thường thường có hai đường: Một đường theo nước tiểu mà ra, một đường theo đường ruột mà ra. Khi gan và túi mật có bệnh, đường bài xuất qua ruột bị cắt đoạn nên chỉ còn cách bài xuất qua đường nước tiểu. Nước tiểu vì có hàm lượng đởm trấp tăng cao mà biến ra màu vàng sẫm. Bệnh viêm gan thời kỳ đầu chưa xuất hiện hoàng đản, chúng ta có thể thấy nước tiểu có màu vàng như nước trà đặc. Đó là tín hiệu của bệnh viêm gan.

Ngoài ra nước tiểu có màu vàng vẩn đục là biểu hiện hoá mủ ở cơ quan tiết niệu.

d.Nước tiểu màu lam

Hay gặp ở các chứng mắc loạn, ban chẩn, thương hàn chứng cao canxi huey6t1 nguyên phát và chứng trúng độc vitamin D. Nhưng nước tiểu có màu này lại có quan hệ với sự dùng thuốc, không phải do bệnh gây ra, như dùng thuốc lợi tiểu có chất benzen và một số thuốc khác. Khi thôi dùng thuốc thì triệu chứng hết. Các chứng do dùng thuốc gây ra màu lam trong nước tiểu thuộc hiện tượng bình thường, miễn phải bận tâm.

e.Nước tiểu màu lục (xanh lá cây)

Khi nhiễm trực khuẩn bệnh hoá mủ xanh thì nước tiểu màu lục. Khi chất đởm hồng tố đọng lâu trong nước tiểu cũng sinh màu lục vì nó bị oxy hoá thành đởm lục tố.

f.Nước tiểu màu xanh nhạt

Hay gặp ở người uống nhiều biệt dược có chứa Magnésium và kẽm (Zn).

g.Nước tiểu màu xanh tối

Nguyên nhân giống như nước tiểu màu lam.

h.Nước tiểu màu đen

Nước tiểu màu đen tương đối ít gặp, thường gặp ở bệnh nhân bị bệnh tán huyết như bệnh nhân sốt rét ác tính. Y học gọi đó là bệnh hắc niệu nhiệt là một chứng rất nghiêm trọng  trong loại sốt rét ác tính. Trong huyết tương của bệnh nhân này có nhiều oxy tự do (duly) nên huyết sắc tố đỏ bị oxy hoá theo nước tiểu bài  xuất, tạo thành màu đen pha màu đỏ tối.

Theo báo cáo tư liệu nước ngoài: bệnh nhân bị  trận đái ra chất hồng đản bạch (một thứ đạm của hồng cầu). Sau khi vận động cũng có nước tiểu màu nâu đen, đồng thời kèm theo cơ nhục vô lực, có thể phát triển dần thành tê liệt.

Ngoài ra, nước tiểu đen có thể thây trong trường hợp trúng độc aceid carbonic. Trường hợp có khối u hắc sắc tố cũng sinh niệu hắc toan.

i.Nước tiểu màu nâu cọ (màu xì dầu)

Hay gặp ở bệnh viêm thận cấp, viêm gan hoàng đản cấp tính, bỏng có diện tích rộng, thiếu máu do tán huyết, truyền máu không đúng loại, thậm chí sau khi vận động quá mạnh, nước tiểu cũng có màu như xì dầu.

Sau khi ngủ dậy thấy nước tiểu màu nâu cọ. Đó là đặc trưng của bệnh đái ra chất huyết hồng đản bạch (chất đạm ở trong hồng cầu). Nếu sau khi ăn phải  đậu thanh tàm , phát sinh nước tiểu màu xì dầu nên cảnh giác bệnh thanh tàm đậu. Bệnh nhân thường kém sức, đau đầu, lợm giọng, da và mắt phát vàng, nên đến y viện cấp cứu đề phòng bất trắc

j.Nước tiểu đỏ

Nước tiểu đỏ quá nửa là trong nước tiểu có hồng cầu. Y học gọi là huyết niệu. Nếu đái ra quá ít máu, thì chỉ có thể dùng kính hiển vi soi tìm tế bào hồng cầu gọi là trường hợp  “kính hạ huyết niệu”, Nếu xuất huyết nhiều, thì dùng mắt thường cũng thấy nước tiểu có màu máu (nói chung trong 100cc nước tiểu có lượng máu có lượng máu quá 1ml thì mắt thường cũng thấy nước tiểu biến đỏ).

Nói chung ở người khoẻ mạnh thì không có hoặc có lúc có hồng cầu ở thể vi lượng (1-2 cái).

Trong nước tiểu thường hay xuất hiện hồng cầu thì nên chú ý cảnh giác vì đó là tín hiệu bệnh toàn thân, hoặc có quan hệ tiết niệu hoặc phụ cận tiết niệu.

Nguyên nhân của đái máu rất phức tạp. Có đến hàng trăm thứ bệnh dẫn đến chứng đái ra máu chẩn đoán không phải là dễ dàng. Chẳng qua, chỉ cần bạn quan sát kỹ càng. Nói chung, người ta cũng có thể là dựa vào các triệu chứng kèm theo khi đái ra máu và chứng trước và sau khi đái ra máu. Về phương diện  sắc trạch, hình trạng … thì sơ bộ cũng phán đoán tính chất bệnh.

-Một là, kết hợp các chứng trạng đoán ra tính chất huyết niệu, Nếu đái máu kèm theo chảy máu mũi, răng lợi chảy máu, chảy máu ngoài da, điều này có khả năng là xuất huyết toàn thân, ví dụ giảm tiểu cầu, bệnh tử điến dị ứng, bệnh huyết hữu, thậm chí bệnh nặng là bạch huyết … Tiểu tiện ra máu chẳng qua cũng chỉ là một trong những biểu hiện của một bệnh xuất huyết toàn thân.

Khi đái máu kèm theo phát sốt, các đốt khớp sưng đau, tổn thương ở da, tổn thương nhiều cơ quan, có khả năng là bệnh của tổ chức liên kết (như bệnh hồng ban lang sang toàn thân, viêm da động mạch kết tiết …).

Khi đái ra máu kèm theo cao huyết áp, phù thũng, đái ra anbumin, phần nhiều là bệnh viêm cầu thận. Khi đái máu kèm theo eo lưng và bụng đau lăn tăn khó chịu, đái gấp, đái luôn luôn, đau khi đái, phần nhiều là cảm nhiễm hoặc lao hệ tiết niệu.

Đái máu kèm theo eo lưng trướng đau hoặc một bên bụng đau thắt có khả năng nhiều nhất là sỏi thận, sỏi niệu quản, đặc biệt là đau trên giường quằn quại không yên, phần nhiều là bệnh sỏi niệu quản.

Đái máu kèm theo đi đái không thoải mái, tốn sức, tiểu tiện ra từng giọt, ở nam giới tuổi cao phần nhiều là tuyến tiền liệt phì đại, ở tuổi trung niên nghĩ đến bệnh hẹp niệu đạo, sỏi niệu đạo hoặc u bàng quang.

Sau chấn thương dẫn đến đái máu, bất luận là có tổn thương trực tiếp bộ phận sinh dục ngoài hay không, nói chung phần nhiều là do tổn thương hệ tiết niệu.

Sau khi vận động mạnh, hoặc lao động t hể lực mạnh xuất hiện đái máu, nên nghĩ đến các khả năng là: Sa thận, sỏi đường tiết niệu, hoặc đái máu do vận động (ở nam giới phần nhiều là sỏi hoặc vận động mạnh, ở nữ giới phần nhiều do sa thận hoặc có sỏi).

Người trung lão niên xuất hiện đái máu mà không đau, hoặc đái máu mà không xuất hiện bất kỳ chứng trạng nào, thì đó là tín hiệu quan trọng về khối u hệ tiết niệu, nên đề cao cảnh giác, là vì ung thư hệ tiết niệu hay phát từ 40- 60 tuổi, chứng trạng xuất hiện sớm nhất là đái máu mà không đau. Ung thư hệ tiết niệu có thể phát sinh ở các bộ phận: thận, niệu quản, bàng quang, biệu đạo.

Vì bàng quang là kho tích trữ nước tiểu, thời gian tiếp xúc nước tiểu dài, vì vậy so với các bộ phận khác trong hệ tiết niệu, thì bàng quang dễ sinh ung thư nhất. Tỷ lệ chữa khỏi ung thư bàng quang thấp, tỷ lệ tái phát cao. Nguyên nhân là chứng đái máu xuất hiện ở ung thư thận và ung thư bàng quang có thể lúc có lúc không, làm cho một số bệnh nhân tưởng rằng căn bệnh đã qua khỏi. Thực ra, đó  chỉ là một “giả tượng”. Không ít bệnh nhân vì thế mà lo là cảnh giác, vì vậy mà chẩn đoán nhầm và bỏ lỡ thời cơ chữa trị, làm cho ung thư chuyển sang thời cuối. Cho nên người trung lão niên nếu xuất hiện chứng đái ra máu không đau, nên kịp thời đến Y viện kiểm tra để minh xác chẩn đoán và điều trị sớm.

Ngoài ra chứng tử điến dị ứng, xuất huyết lưu hành, nhiệt tính, hệ tiết niệu và cơ quan phụ cận như ruột thừa, trực tràng, kết tràng, tử cung, buồng trứng, có bệnh cũng dẫn đến đái ra máu.

-Hai là, dựa vào tính chất trước và sau khi đái máu mà phán đoán. Mới bắt đầu đái đã có máu và sau khi đái thì  không có, biểu hiện là  là bệnh ở tiền niệu đạo. Khi mới đái, nước tiểu trong, khi kết thúc mới ra máu, biểu hiện bệnh ở hậu niệu đạ và cổ bàng quang., Một lần đi đái, từ đầu chí cuối đều thấy ra máu, biểu thị bênh ở bàng quang, niệu quản hoặc thận (1) ((1) Có một cách thử rất khoa học là khi bệnh nhân tiểu tiện cho họ đái vào 3 cái cốc lần lượt là: Cốc đầu, cốc giữa, và cốc cuối. Sau đó thầy thuốc quan sát xem tính trạng màu nước tiểu ra sao có thể phán đoán tính chất bệnh, Cách thử ấy là phép thử 3 cốc.

-Ba là: Căn cứ sắc trạch của huyết niệu, phán đoán tính chất huyết niệu. Huyết niệu màu nâu hoặc xuất hiện sắc trạch dạng mây khói, đó là khả năng bộ vi xuất hiện từ mức độ niệu quản trở lên, là bệnh lý ở phần cao, trái lại màu huyết niệu đỏ nhạt hoặc đỏ tươi, thì bộ phận xuất huyết ở thấp hơn, có khả năng là ở bàng quang.

-Bốn là: Dựa vào hình trạng xuất huyết phán đoán tính chất huyết niệu. Trong huyết niệu nếu đục, có huyết khối, nếu là hình dải học tơ nhỏ thì bộ vị xuất huyết có thể là thận tạng hoặc niệu quả. Nếu có huyết khối hình cầu, thì huyết niệu tính là mặt trong bàng quang.

-Năm là: Dựa vào số tuổi phán đoán tính chất huyết niệu.Trẻ em đái máu thường gặp ở bệnh viêm cầu thận, anbumin, trụ niệu.

Thanh thiếu niên và trung niên huyết niệu thường gặp ở các bệnh cảm nhiễm. Nữ giới hay gặp ở sỏi, chấn thương, lao, viêm thận, dị vật …

Còn huyết niệu do viêm niệu đạo và viêm tiền liệt tuyến phần nhiều là huyết niệu thấy qua kính hiển vị huyết niệu ở người già thường gặp ở bệnh khối u, bệnh tiền liệt tuyến tăng sinh …

Cuối cùng, có một điểm cần chú ý là: Nước tiểu biến sang màu đó, không nhất thiết đều là huyết niệu cả, còn khả năng là do uống các tân dược hoặc do các nguyên nhân khác dẫn tới, ví dụ uống thuốc tả lị có nhóm acidcacbonic, đại hoàng, các thuốc chống lao như Rimifon và các thuốc khu trùng, tẩy giun sán … đều có thể làm nước tiểu biến thành màu đỏ.

2.Quan sát tính trạng nước tiểu

a.Nhìn bọt

Trong nước tiểu có bọt thời gian dài không hết biểu thị khả năng đái ra anbumin. Điều này là do trong nước tiểu có chất đạm, sức căng bề mặt lớn, làm cho bọt trong nước tiểu không dễ tan đi, Gặp tình huống này nên đến Y viện làm hoá nghiệm. Nếu đi viện chưa tiện, thì trước hãy ở nhà làm một thí nghiệm giản đơn như sau: Cho nước tiểu vào ống pha lê, hơ ống ấy trên ngọn lửa cho tăng nhiệt độ. Nếu thấy có chất anbumin (như lòng trắng trứng). Vón đọng lắng xuống biểu thị trong nước tiểu có chất đạm, Chất đạm tăng nhiều, chất vón đọng càng tăng.

Anbumin trong nước tiểu tăng cao thường gặp nhất ở bệnh viêm thận, cũng hay gặp ở bệnh gan nước tiểu người bệnh gan hay có bọt màu vàng, thời gian tổn lưu kéo dài.

b.Xem độ trong suốt

Nước tiểu khi bài tiết có dạng vẩn đục. Sau khi để yên cho lắng xuống, thì quá nửa là chất muối. Ngoài vấn đề liên quan đến thức ăn , chú ý xem có kèm theo vật thể giống hạt cát không. Nếu là có thì đó là sỏi. Nước tiểu có dạng mủ tục, quá nửa là vật hình sợi, gọi là nùng niệu (nước đái mú) là trưng triệu cảm nhiễm của hệ tiết niệu.

c.Ngửi mùi

Nước tiểu mới bài xuất đã có mùi ammoniac chứng tỏ nước tiểu này trong cơ thể đã bị phân giải, đó là biểu hiện viêm bàng quang hoặc nước tiểu tồn đọng.

Nếu nước tiểu có mùi thơm táo tây thường gặp ở bệnh tiểu đường trúng độc toan hoặc trạng thái đói lả. Loại nước tiểu này thường làm kiến bâu đến.

Nếu nước tiểu có mùi thối, rửa ranh hôi thường gặp ở viêm bàng quang và viêm thận có mủ. Bệnh nhân có bệnh rõ bàng quang kết tràng thì trong nước tiểu có mùi phân phối.

Khi ăn tỏi, hành củ, hoặc dùng thuốc có mùi vị đặ thù thì trong nước tiểu cũng có thể có mùi đặc thù của các chất ấy. Điều cần chú ý ở đây là phân biệt mùi vị trong nước tiểu nên dùng nước tiểu mới đái ra. Nước tiểu để quá lâu, do có vi khuẩn phát triển, niệu tố bị phân giải, sản sinh mùi ammônic sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả quan sát.

3.Quan sát biến đổi lượng nước tiểu

Niệu lượng của người lớn bình thường một ngày đêm ước độ từ 1000- 2000m. Nước tiểu nhiều ít có quan hệ đến nước uống, thức ăn và nhân tố khí hậu. Mùa hè mồ hôi nhiều thì nước tiểu ít, mùa đông mồ hôi ít thì nước tiểu nhiều. Khi có bệnh, nước tiểu cũng có nhiều, có ít. Một ngày đêm tiểu tiện vượt quá 2400ml gọi là đái nhiều (đa niệu) ít dưới 500ml gọi là đái nhiều (thiểu niệu). Niệu lượng một ngày dưới 200ml trở xuống gọi là chứng vô niệu.

-Đa niệu: Đa niệu chia làm hai loại hình:

Đa niệu sinh lý và đa niệu bệnh lý. Đa niệu sinh lý thường gặp ở người uống nước nhiều, hàn lãnh kích thích, uống rượu, uống trà, dùng thuốc lợi tiểu hoặc ăn các món ăn có tác dụng lợi tiểu. Đa niệu bệnh lý thường gặp ở bệnh tiểu đường, bệnh đái tháo nhạt …

Bệnh tiểu đường là một bệnh do chuyển hoá hrmone tuyến nội tiết thường gặp. Bệnh nhân vì không đủ chất insulin do tuyến tuỵ đảo chế tạo, làm cho đường huyết lên cao, gây rối loạn chuyển hoá nước và chất điện giải mà xuất hiện chứng đái nhiều. Bệnh này thường gặp ở người từ 40 tuổi trở lên, thích ăn đồ ngọt mà béo phì. Đặc điểm của bệnh là uống nhiều, ăn nhiều và đái nhiều. M6t5 ngày đêm niệu lượng có thể từ 3000- 10.000 ml. Do là đai nhiều mất nước, vì vậy uống nước cũng nhiều.

Chứng đái tháo là do thuỳ sau của thuỳ thể dưới não công năng giảm sút, kích tố chống lợi tiểu phân tiết kém sút dẫn tới bệnh này. Bệnh này gặp ở thanh thiếu niên, có đặc điểm là đái nhiều, tỷ trọng nước tiểu xuống thấp, phiền khát uống nước nhiều, một ngày đêm niệu lượng có thể từ 4000- 6000 ml thậm chí 10.000 ml, hạn chế uống nước, niệu lượng vẫn khôn giảm sút, lại còn xuất hiện miệng khát muốn uống, toàn thân kém lực, đau đầu. Đó là chứng trạng mất nước. Nếu cấp đủ lượng nước uống, chứng trạng tạm thời hoãn công năng thận bình thường.

Ngoài ra, đa niệu còn gặp ở bệnh viêm thận, khi công năng cô đặc nước tiểu bị chướng ngại, bệnh thuỷ thũng niêm dịch (phù cứng) bệnh to đầu ngón chân tay và các u bướu não tuỷ.

Điều cần chú ý là: Còn có một loại đa niệu không do bệnh tiểu đường hoặc u não dẫn tới, mà thường là do tổn thương tinh thần mà ra. Bệnh này y học gọi là: “bệnh phiền khát” do tinh thần là loại bệnh về chức năng. Chứng trạng chủ yếu của bệnh này giống như bệnh đái tháo do tỷ trọng nước tiểu và áp lực thẩm thấu. Khi hạn chế uống nước thì tỷ trọng nước tiểu tăng cao, đồng thời niệu lượng cũng giảm đi, nhưng tiêm hormone tuyến thuỳ thể dưới não thì hiệu quả không rõ nét. Bệnh này lấy tâm lý trị liệu làm chủ Thường là không thuốc mà khỏi.

-Đái đêm: Người bình thường đái ban ngày nhiều hơn đái ban đêm. Nói chung người ta đái đêm 1- 2 lần niệu lượng 300- 400 ml hoặc không đái đêm. Nếu ban đêm số lần đi đái nhiều hơn tới 4- 5 lần hoặc hơn nữa, niệu lượng vượt quá lượng đái ban ngày, tỷ trọng nước tiểu cũng thấp hơn (dưới 1,01) Y học gọi là chứng đáy đêm (dạ niệu). Đái đêm cũng chia làm hai loại hình là đái đêm sinh lý và đái đêm bệnh lý.

Đái đêm thường do khi ngủ uống nhiều nước, uống trà, uống cà phê, ăn dưa hấu … hoặc do uống thuốc lợi tiểu dẫn tới. Đái đêm bệnh lý thường gặp ở các bệnh như: Bệnh thận, công năng tim giảm, cao huyết áp, tiểu đường, đái tháo …

-Bệnh thận dẫn tới đái đêm

Nếu công năng cô đặc của ống thận bất toàn do viêm thận mạn tính tạo thành và bệnh nhân phù thũng về ban đêm nằm ngửa, lực hồi lưu của dịch thể phù thũng gia tăng, hình thành chứng đái đêm.

-Công năng tim bất toàn dẫn đến đái đêm.

Ban ngày bệnh nhân hoạt động nhiều, chứng bất túc của công năng tim hiện rõ nét, lưu lượng máu xuống thấp,  lượng nước tiểu. Ban đêm bệnh nhân ngủ, công năng tim tương đối được nâng cao, nên niệu lượng gia tăng. Vì vậy chứng đái đêm thường là dấu niệu sớm của bệnh suy tim (IC).

-Bệnh tiểu đường và bệnh đái tháo dẫn tới đái đêm:

Hai bệnh này không chỉ đái đêm nhiều, ban ngày cũng đái nhiều. Nguyên nhân đã nói ở các điều trước.

Đái đêm nhiều  còn khả năng do nhân tố tâm lý tạo thành. Bệnh nhân mất ngủ thì tinh thần ở trạng thái căng thẳng dẫn tới tim đập nhanh hơn, lượng tuần hoàn máu gia tăng thì lượng đái đêm cũng tăng.

Ngoài ra, dái đêm còn có quan hệ đến tuổi tác. Rất nhiều cụ già có hiện tượng đái đêm tăng. Đó là sự lão hoá vì tuổi cao: trọng lượng thận, lượng huyết lưu có xu thể  ngày một giảm. Từ 30 tuổi bắt đầu, đến 60 tuổi công năng dần dần xuống thấp, 80 tuổi chỉ bằng một nửa của người 40 tuổi. Vì ống thận của người già biến đổi tính co lại và giãn ra, dẫn tới công năng cô đặc nước tiểu giảm sút. Phần lớn nước tiểu được bài xuất ra ngoài cơ thể. Nên xuất hiện chứng đái nhiều và đái đêm. Nguyên nhân dẫn đến người già đái đêm có rất nhiều, trước kia người ta chỉ biết là do tiền liệt tuyến tăng sinh , bệnh tiểu đường, viêm bể thận mạn tính, bệnh động mạch vành tim, đa niệu do nhân tố tinh thần dẫn tới đái đêm. Nhưng các nghiên cứu nhất gần đây chứng tỏ rằng: nguyên nhân thường gặp nhất là chứng sơ hoá tiểu động mạch thận. Bệnh này phần nhiều phát sinh từ 50 tuổi trở lên, và hay ở bệnh nhân cao huyết áo kéo dài. Vì vậy dự phòng và chuẩn trị cao huyết áp, phòng béo phì, vận động hợp lý, ngủ đủ giấc, duy trì tinh thần làm chậm suy lão, cải thiện công năng thận. Người già đái nhiều hoặc đái đêm cần uống nhiều nước nhưng nói chung từ 8 giờ tối về sau thì nên uống ít để tránh đái nhiều.

-Đái ít: Đái ít giống như đái nhiều, cũng chia làm 2 loại hình là: Đái ít sinh lý và đái ít bệnh lý.

Đái ít sinh ly thường gặp ở người uống nước quá ít, ăn muối quá nhiều. Đái ít bệnh lý thường gặp ở người viêm thận cấp và công năng thận suy do  các nguyên nhân.

-Viêm thận cấp tính: Bệnh nhân thường là trước có cảm mạo, đau họng hoặc viêm aminđan. Trong 1- 3 tuần xuất hiện lượng tiểu tiện giảm, màu sẫm và vẩn đục, có lúc như màu trà đỏ (día máu) đồng thời bệnh nhân phù thũng, thường xuất hiện ở đa mí mắt, da đầu và bộ mặt trước, rõ nét về sáng sớm, buổi trưa giảm dần, nhưng chân sưng lại dần dần gia tăng, bệnh nặng thì toàn thân phù thũng, thậm chí xuất hiện tràn dịch màng phổi, trành dịch phúc mạc.

Vì vậy xuất hiện thở gấp và trướng bụng, có người cao huyết áp và đau đầu.

-Công năng thận suy kiệt: Do nhiều nguyên nhân dẫn tới: Sản vật chuyển hoá không bài tiết được và mất cân bằng chất điện giải mà phát sinh hàng loạt triệu chứng lâm sàng. Chia hai loại cấp mà mạn: Người cấp tĩnh ít gặp, nhưng công năng thận suy cấp có xu thế kịch liệt. Trên lâm sàng lấy chứng đái ít. Đó là một chứng bệnh vô cùng nguy hiểm. Chứng này thường do ra máu nhiều, chấn thương, bỏng, bệnh biến ở thận, cao huyết áp cấp dẫn tới. Chứng suy thận mạn tính thường hay gặp do các bệnh mạn tính về thận như viêm thận, viêm bể thận mạn tính, sơ cứng tiểu động mạch thận , viêm bể thận là thận tạng tổn thương nặng. Biểu hiện thời kỳ đầu là đái đêm, đái nhiều, tỷ trọng nước tiểu giảm. Thời kỳ cuối, niệu lượng giảm sút dần, phát sinh các biểu hiện cao huyết áp, thiếu máu, trúng độc urê, trúng độc toan xét nghiệm thấy công năng thận không bình thường.

Đái ít còn gặp ở chứng nôn mửa nặng, ỉa chảy, sốt cao, ra mồ hôi quá nhiều và chứng suy tim sung huyết, xơ gan có huyết áp tĩnh mạch cửa cao viêm phúc mạc và dùng các thuốc có hại đến thận làm trúng  độc, hoặc do tuyến tiền liệt tăng sinh, ung thư cổ tử cung đè ép hai niệu quản mà dẫn tới nghẽn tắc đường tiết niệu tạo thành.

4.Chú ý số lần đi tiểu

Người bình thường ngày đi tiểu 4- 5 lần, ban đêm 0- 2 lần. Niệu lượng mỗi lần độ 300- 500ml. Nếu 1 ngày đi tiểu từ 10 lần trở lên, nặng thì chỉ nửa giờ đến 1 giờ, thậm chí chỉ vài phút là phải đi tiểu 1 lần, thì gọi là chứng đái luôn luôn (niệu tần). Niệu tần có khả năng do sinh lý, cũng có khả năng do bệnh lý.

Do sinh lý như uống nước quá nhiều, thời tiết lạnh thậm chí ăn nhiều măng, nhiều mỡ, hoặc uống nhiều đồ nóng lợi tiểu như hồng trà, cà phê, nước uống có ga có thể phát sinh niệu tần. Đó là những hiện tượng bình thường.

+Niệu tần bệnh lý, nguyên nhân thường gặp có mấy thứ như sau:

-Bệnh của bàng quang hoặc các cơ quan phụ cận bàng quang kích thích thành bàng quang dẫn tới đái luôn luôn. Thường gặp nhất là viêm bàng quang, thứ đến lao bàng quang, sỏi bàng quang, u bàng quang … Cuối cùng thường là viêm vòi trứng, viêm khung chậu, viêm tiền liệt tuyến …

Bệnh lao bàng quang, khối u, hoặc sỏi lâu ngày làm cho dung lượng bàng quang giảm, dẫn tới niệu tần. Khối u của tổ chức phụ cận bàng quang (như trực tràng tử cung, cơ quan trọng khung chậu có khối u sưng) đè ép làm dung lượng bàng quang nhỏ đi, dẫn tới chứng niệu tần.

-Do tuyến tiền liệt phì đại, niệu đạo hẹp, sỏi niệu đạo, làm tắc dòng nước tiểu, dẫn tới niệu tần.

-Người có tố chất thần kinh, phụ nữ thời văn niên, bệnh hysteria, hệ thần kính thực vật mất điều hoà, cũng phát sinh niệu tần. Niệu tần do thần kinh thì 20- 30 phút đi đái 1 lần, nước tiểu trong.

Ngoài ra, thai phụ do thể tích tử cung to dần đè ép bàng quang cũng phát sinh hiện tượng đái luôn luô.

Đương nhiên nguyên nhấn niệu tần có nhiều mặt cần kiểm tra phân tích kỹ, tránh chẩn đoán lầm:

5.Chú ý các biến đổi dị thường khác về bài niệu

+Khó tiểu tiện và nước tiểu tồn đọng: Bài niệu không thư xướng gọi là chứng đái khó. Biểu hiện là đái chậm, tia nước tiểu bé, cần dùng sức thúc ép ra, hoặc lúc đầu khó đái cần chờ một lúc mới đái được, hoặc là tia đái không đi được xạ, hoặc là bàng quang đầy nước tiểu mà không mót tiểu tiện. Chứng đái khó phát triển làm bàng quang tồn đọng nước tiểu mà không tự động bài xuất được gọi là “niệu tồn lưu”.

Khi tồn lưu nước tiểu, dung tích bàng quang có thể từ 3000- 4000 ml. Vì bàng quang bành trướng quá độ, bệnh nhân cảm thấy bụng dưới đầy, không thư thái, phiền táo và đau.

Đái khó đa số phát sinh ở người già, phần nhiều do tuyến tiền liệt tăng sinh dẫn tới.

Vị trí tiền liệt tuyến ở chu vi niệu đạo sau miệng bàng  quang. Tuỳ theo số tuổi tăng không ít người già phát sinh bệnh tiền liệt tuyến tăng sinh gọi là tuyến tiền liệt phì đại. Tuyến này to dần đè ép lên niệu đạo dẫn tới đái khó. Bình thường thời gian đái một lần là 20 giấy. Nếu liên tục trong 2- 3 phút mà đái kh6ng xong nên nghĩ đến có phải là tuyến tiền liệt tăng sinh hay không

Đặc điểm của ung thư bàng quang là đái tháo mà không đau, có khi trong nước tiểu đục có huyết khối. Đái máu có thể phát lúc không là do ung thư lan dần tới miệng bàng quang hoặc là huyết khối làm tắc miệng bàng quang nên xuất hiện đái khó. Sỏi bàng quang bịt miệng bàng quang thì đái không ra nước.

Nguyên nhân thường gặp ở phụ nữ trung lão niên là khối thịt thừa ở niệu đạo, viêm âm đạo và di chứng sau sản thương . Khi đẻ, do dầu thanh nhi qua sản đạo đè ép niệu đạo, tạo thành niệu đạo tổn thương dễ phát viêm hoá mủ đóng vẩy làm cho niệu đạo hẹp, khi đẻ nếu dùng kẹp thai nhi cũng dễ làm tổn thương thành niệu đạo.

Phụ nữ hẹp niệu đạo tuổi trẻ tuy bài niệu không thông xướng nhưng chưa chú ý lắm. Khi tuổi cao phát hiện số lần đi đái tăng nhiều, bài niệu khó khăn, sau khi đái còn giỏ vài giọt ướt quần.

Cổ bàng quang tắc cũng là nguyên nhân bài niệu khó ở phụ nữ. Bệnh này dẫn tới bài niệu khó giống như tuyến tiền liệt tăng sinh ở nam giới cho nên có tên gọi là “bệnh tuyến tiền liệt phụ nữ”.

Nguyên nhân làm tắc cổ bàng quang có khả năng là tổ chức phụ cận bàng quang phát viêm hoặc do cơ nhục ở đó tăng sinh hoặc do kết quả thần kinh điều tiết không nhạy cảm. Phụ nữ có bệnh cổ bàng quang tắc cũng có triệu chứng đái luôn, đái gấp , đái đau, và đái khó, thậm chí có khi phát sinh đái máu. Ngoài ra, khi bệnh ung thư bàng quang, ung thư tử cung, ung thư âm đạo ở phụ nữ già lan tràn đến bàng quang và niệu đạo cũng gây hiện tương đái khó. Các nguyên nhân khác gây đái khó và tồn đọng nước tiểu gồm có: Thoát vị nghẹt, khối u, hoặc huyết khối làm tắc niệu đạo, hoặc do phẫu thuật gây tê hoặc bệnh của trung khu thần kinh.

Ngoài ra một số bệnh nhân qua kiểm tra loại trừ nguyên nhân bệnh lý có thể nghĩ đến nhân tố tâm lý gây nên chứng đái khó. Nguyên nhân chủ yếu là khi một người tinh t hần căng thẳng cao độ cũng ảnh hưởng đến công năng điều tiết chi phối bàng quang của hệ thần kinh thực vật, kết quả làm sức căng bàng quang giảm đi, gây ra đái khó, Chứng này dùng tâm lý trị liệu làm chủ, nói chung không thuốc mà khỏi.

+Đái đau

Bệnh thường gặp nhất là cảm nhiễm đường tiết niệu, sỏi thận, khối u, cảm nhiễm vi khuẩn làm phát viêm bàng quang, niệu đạo làm cho sưng huyết, khi đi đái hay đau dữ, cơn đau lan bụng dưới và vùng xương cùng.

Cảm nhiễm niệu đạo hay thường gặp. Trong các bệnh cảm nhiễm, bệnh này đứng hàng thứ hai, sau cảm nhiễm  đường hô hấp. Nữ giới do phẫu thuật và sinh lý dễ mắc cảm nhiễm tiết niệu.

Có người thống kê, gần quá nửa số phụ nữ, trong đời cảm nhiễm từ 1 lần đến trên một lần ở đường tiết niệu. Đặc điểm của bệnh này là đái luôn đái gấp đái đau. Cảm nhiễm cấp có thể kèm theo phát sốt, rét dữ, đau eo lưng. Cảm nhiễm mạn tính thì sốt âm, đau eo, phù thũng nhẹ, vùng thận gõ đau, vùng trên niệu quản có áp thống nước tiểu đục mùi nồng nặc khó ngửi, có các chứng kể trên, có thể xác chẩn là cảm nhiễm đường tiết niệu. Y sinh cần dựa vào bệnh tình mà tiến hành một loạt kiểm tra hoá nghiệm mới chẩn đoán rõ ràng.

+Đái gấp

Có nghĩa là không nhịn được cảm giác mót đái, hơi có cảm giác mót đái là phải tiểu tiện ngay. Chứng này thường phát sinh đồng thời với chứng niệu tần và chứng đái đau. Phần lớn nguyên nhân là do tính viêm cấp tính ở bàng quang, niệu đạo , tiền liệt tuyến hoặc do dung lượng bàng quang thu nhỏ, có khi còn quan hệ với nhân tố tinh thần.

+Đái không tự chủ (niệu thất cấm)

Ý nói nước tiểu không bị khống chế, mà tự động qua niệu đạo chảy ra, nguyên nhân thường gặp là:

-Vì bàng quang đầy nước tiểu quá mức, làm cho đái không tự chủ. Nếu bệnh phì đại tuyến tiền liệt làm cho nước tiểu tồn đọng, tuỳ theo sự tích tụ ở bàng quang khiến áp lực ở bàng quang không ngừng gia tăng và vượt quá sức ngăn cản của niệu đạo, cho nên nước tiểu liên tục chảy ra ngoài. Trên lâm sàng gọi chứng này là “niệu thất cấm” do tràn đầy.

-Vì cơ đóng mở niệu đạo lỏng lẻo dẫn tới niệu thất cấm, sản phụ và phụ nữ già do cơ niệu đạo bị bệnh biến thành thoái hoá, bệnh nặng thì cơ vô lực, hoặc có khi do phẫu thuật, do sinh đẻ nhiều khiến cơ niệu đạo tổn thương dẫn đến chứng niệu thất cấm. Niệu thất cấm thường phát sinh trong tình huống vác nặng, đi đường ho, cười lớn, hắt hơi … Lâm sàng gọi là chứng niệu thất cấm do áp lực.

-Vì trung tâm thần kinh tổn thương dẫn tới niệu thất cấm, như sau một chấn thương làm cho tuỷ sống bị tổn thương khiến cho tring khu bài niệu mất liên lạc với đại não và thần kinh chi phối bàng quang cũng lại bị tổn thương nên công năng truyền tin bị chướng ngại gây ra chứng niệu thất cấm.

-Vì nguyên nhân tiên thiên, miệng của niệu quản ở sai vị trí hoặc có lỗ dò bàng quang gây ra chứng niệu thất cấm.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình