- Đối với con dưới 2 tháng tuổi: Lợn con theo mẹ thì giun đũa chưa đẻ trứng (60 – 62 ngày giun mới đẻ trứng). Vì vậy, muốn chẩn đoán có thể mổ khám lợn rồi tìm ấu trùng ở phổi và gan.
- Đối với lợn trên 2 tháng tuổi: Kiểm tra thêm bằng phương pháp phù nổi để tìm trứng hoặc mổ khám để tìm giun đũa ở ruột non.
- Chẩn đoán bằng phương pháp biến thái nội bì: Theo Ersov chế kháng nguyên như sau:
Rửa sạch giun đũa còn sống, nghiền nát hoà với hai phần nước cất. Cứ 1 ml dung dịch tiêm thêm 8g men tuyến trùng và 10ml Chlorofoc. Điều chỉnh pH = 7,6 – 7,8 cho vào tủ ấm 7 – 12 ngày. Khi giun tan hết thì ly tâm. Lấy nước ở trên cho vào lọ pha với cồn 960 tỷ lệ 1:5 để cho kháng nguyên lắng xuống; lấy kháng nguyên ở đây cho vào tủ ấm. Sau khi khô, bảo quản ở tủ lạnh trên 8 tháng vẫn không ảnh hưởng đến đặc tính kháng nguyên. Khi tiêm pha loãng 1:200, có thể tiêm nội bì, vành ngoài tai hoặc nhỏ vào xoang kết mạc mắt. Phương pháp này chẩn đoán tốt, không có phản ứng chéo với lợn nhiễm giun tốc, giun kết hạt và giun đầu gai.
Sau khi lợn nhiễm giun đũa từ 8 – 11 ngày, bắt đầu có phản ứng dương tính. Phản ứng này duy trì được 110 – 140 này. Thời gian phản ứng biến thái xuất hiện phù hợp với thời gian kháng thể tập trung trong máu sau khi nhiễm giun và không phụ thuộc vào giun trưởng thành ở ruột.
Tỉ lệ nhiễm giun đũa qua các tháng tuổi của lợn: dưới 2 tháng tuổi 39%, 3 – 4 tháng tuổi 48%, 5 – 7 tháng tuổi 58% trên 8 tháng tuổi chiếm 25%.
Phòng bệnh:
- Đối với lợn bột, một đời chỉ cần tẩy 1 lần khi tách mẹ với thuốc dipterex, atgard: liều dùng 0,15 g/kg. Trộn vào thức ăn ngoan, cho lợn ăn hết thuốc, tiếp tục cho lợn ăn hết khẩu phần còn lại.
- Đối với lợn chửa, lợn đang nuôi con và lợn con theo mẹ thì không tẩy.
- Đối với cơ sở nuôi tập trung nhiều lợn thì 3 – 4 tháng tẩy giun cho tất cả đàn lợn một lần với:
+ Lợn con mới tách mẹ.
+ Lợn nái mới cai sữa con.
+ Lợn nuôi thịt, lợn hậu bị, lợn đực giống.
- Chuồng trại phải hợp vệ sinh. Có hố lắng cặn 3 ngăn. Phân phải ủ để diệt mầm bệnh. Thực hiện vệ sinh tiêu độc định kỳ
Trị bệnh:
- Phenothiazin: với liều 0,5 g/kg thể trọng, dùng 2 buổi sáng liền. Kết quả tẩy được 70 – 100% giun đũa.
- Dipterex: Dùng liều 0,05 g/kg thể trọng, pha với nước cất theo tỉ lệ 5%, tiêm dưới da (không bắt lợn nhịn đói), thì hiệu lực tẩy giun đũa 80 – 100%, giun tóc 100%. Giun bắt đầu ra 7 giờ sau khi tiêm thuốc.
Nếu cho uống thì dùng liều 0,10 – 0,15 g/kg thể trọng. Với lợn ngoại, lợn lai nặng trên 100 kg thì dùng liều 0,98 g/kg thể trọng, lợn từ 3 – 4 tháng tuổi thì dùng liều 0,15 g/kg thể trọng, lợn từ 5 – 10 tháng tuổi thì dùng liều 0,12 g/kg thể trọng.
- Atgard (Dichlofvos - dẫn xuất của Dipterex) liều dùng 0,15 g/kg thể trọng, tẩy giun đũa, sán lá ruột 100% và các loại giun khác. Thuốc dễ ăn hơn dipterex.
- Tetramisol, Levamisol, thuốc này ít độc, nhưng đắt tiền. Liều dùng 10 – 15 mg/kg thể trọng lợn.
Lợn nước ta thường mắc giun đũa và sán lá ruột nên dùng dipterex và Atgard tẩy một lúc được cả hai loại giun.
- Piperazin: 0,1 g/kg thể trọng trộn vào thức ăn trong 3 ngày liền.
+ Ở nông thôn có thể sử dụng hạt cau tươi cho lợn con trước khi cai sữa 3 – 4 tuần. Cho lợn con cũng ¼ hạt cau tươi/1con (hoặc giả trộn vào thức ăn) và cứ 7 ngày cho ăn một lần đến khi cai sữa. Sau cai sữa một tuần cho uống ½ quả một lần. Lợn 3 – 6 tháng tuổi cho ăn cả quả cau