Nuôi gà sinh sản phải bắt đầu từ gà con, gà giò hậu bị rồi chuyển lên nuôi sinh sản. Tuỳ thuộc vào hướng gà để chúng ta có các giai đoạn nuôi khác nhau, số lượng và chất lượng thức ăn, nước uống khác nhu phù hợp cho từng giống và hướng gà.
Giai đoạn nuôi gà sinh sản sau thời kỳ hậu bị thường bắt đầu từ 22 – 68 tuần tuổi và chúng ta phải chú ý đến những việc sau:
a. Chuyển gà giò hậu bị lên chuồng đẻ?
Trước khi gà đẻ 2 tuần chúng ta phải chọn lọc, loại thải những gà kém phẩm chất và sau đó chuyển số gà đạt yêu cầu lên chuồng đẻ.
Trong ngày chuyển gà ra, cho gà ăn vừa phải, uống đủ nước và tăng cường Vitamin và một số kháng sinh như: T. Colivit, T. Avimycin để chống stress, tốt nhất là chúng ta dùng T. Cúm gia súc để tránh các tác hại khi chọn lọc và chuyển gà. Sau khi chuyển gà được 2 – 4 giờ ta ăn no thoải mái với loại cám mới thơm ngon và là cám dành cho gà đẻ.
Khi chuyển gà cần bắt và vận chuyển một cách nhẹ nhàng vào lúc thời tiết mát mẻ, khô ráo và tốt nhất vào ban đêm.
Chuồng nuôi gà đẻ phải được tẩy uế tiêu độc trước đó ít nhất 3 – 4 ngày và có sẵn cám ăn, nước uống ngày trước khi chuyển gà đến.
Cần chuyển cả gà trống lên cùng với gà mái.
Cần loại bỏ tất cả những gà bị gẫy chân, gẫy cánh hoặc xây xước, bị thương.
b. Mật độ nuôi gà sinh sản
Mật độ thích hợp nhất cho gà sinh sản nuôi nên là 3 – 3.5 con/m2 kể cả gà trống.
Nếu gà nuôi tầng lồng thì mật độ tăng lên gấp 2 – 2.5 lần. Thông thường lồng 40x40cm nuôi 2 gà đẻ.
c. Bố trí đầy đủ máng ăn và máng uống.
Sao cho thật đều trong chuồng và cao vừa phải để tránh gà canh bới rơi vãi cám. Máng uống luôn được vệ sinh sạch sẽ trước khi thay nước và có đủ số lượng máng uống cho gà vào mùa hè.
d. Nước uống.
Nguyên tắc bất di bất dịch trong chăn nuôi gà là phải có nguồn nước dồi dào, ổn định và càng sạch thì càng tốt. Lượng nước uống cho gà đẻ tuỳ thuộc vào mùa khí hậu thời tiết.
Bảng nhu cầu nước uống của mỗi gà đẻ theo nhiệt độ chuồng nuôi đối với gà hướng thịt
Nhiệt độ chuồng nuôi |
Khối lượng nước cần dùng |
15 – 21 0C |
200 – 230ml/con |
21 – 25 0C |
230 – 270ml/con |
26 – 33 0C |
270 – 330ml/con |
33 – 35 0C |
330 – 350ml/con |
Trên 35 0C |
Đến 400ml/con |
e. Thức ăn và cách cho gà sinh sản ăn.
Ngay trong ngày chuyển gà chúng ta phải cho gà ăn khẩu phần thức ăn của gà sinh sản. Đối với thức ăn cho gà sinh sản chúng ta phải cần chú ý:
*. Đạm và một số axit amin quan trọng.
- Giai đoạn đẻ pha I từ 23 – 42 tuần tuổi đẻ cần hàm lượng đạm và axit amin cao hơn giai đoạn đẻ pha II và đóng vai trò quyết định đến khối lượng quả trứng.
- Giai đoạn đẻ pha II từ 43 – 68 tuần tuổi chúng ta cần mức đạm và các axit amin thấp hơn giai đoạn I nhằm giữ cho gà không thay đổi về cấu trúc cơ thể, ổn định về khối lượng của quả trứng và sản lượng trứng.
*. Năng lượng.
Năng lượng trong thức ăn cho gà đẻ rất quan trọng vì năng lượng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất trứng, đến cấu trúc cơ thể gà. Nhu cầu năng lượng trong thức ăn phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ khí hậu chuồng nuôi. Trong thực tế sản xuất sản lượng trứng sẽ bị tụt khi năng lượng tiêu thụ thấp hơn 2,500 – 2,600 K.cal ME/kg TA. Người ta chứng minh:
+ Năng lượng phù hợp nhất cho gà đẻ vào khoảng 2,750 – 2,850 K.cal ME/kg TA.
+ Năng lượng cần để duy trì cho cơ thể sẽ giảm khi nhiệt độ chuồng nuôi tăng lên và giảm đi khoảng 4 K. Cal cho mỗi một độ C tăng lên.
+ Nếu thời tiết ấm áp, chuồng trại thông thoáng tốt thì năng lượng trong khẩu phần ăn lại rất ít có tác động đến năng suất trứng. Vì vậy, việc tăng tỷ lệ năng lượng trong thức ăn nhằm cải thiện năng suất và sản lượng trứng sẽ trở nên vô tác dụng, nói cách khác việc điều chỉnh tăng hoặc giảm năng lượng trong thức ăn không phải là phương pháp tốt để cải thiện năng suất trứng.
*. Canxi và Phốt pho đối với gà đẻ.
Vitamin D, Canxi và Phốt pho rất cần cho gà đẻ trứng vào giai đoạn này gà phải huy động canxi và phôtpho để tạo ra vỏ trứng. Năng suất trứng càng cao thì nhu cầu đáp ứng Ca, P càng phải luôn được chú trọng. Người ta chứng minh nhu cầu về canxi ngày càng tăng theo lứa tuổi của gà đẻ, trong khi đó mức hấp thụ phốtpho nên được giảm đi vào giai đoạn pha II của thời kỳ đẻ trứng (xem bảng tổng hợp chế độ dinh dưỡng cho gà đẻ).
*. Nguyên tố vi lượng và Vitamin.
Nguyên tố vi lượng Mn, Zn, Fe, I, Cu, Co, Se… và các loại Vitamin đặc biệt là Vitamin A, D, E tuỳ có khối lượng tham gia vào quá trình trao đổi chất nhỏ nhưng vai trò tác dụng của chúng thì lại rất lớn. Các nguyên tố vi lượng không những là các chất xúc tác trong quá trình đồng hóa và dị hóa mà đại bộ phận chúng là các thành phần chất không thể thiếu được trong cấu trúc các tổ chức của cơ thể. Vì thế nếu thiếu chúng tỷ lệ nở thấp, gà con nở ra chết yểu nhiều và tỷ lệ nuôi sống không đạt yêu cầu.
Bảng tổng hợp nhu cầu chế độ dinh dưỡng giai đoạn đẻ trứng.
Chỉ tiêu dinh dưỡng |
Đơn vị tính/kg TA |
Gà đẻ > 25 tuần tuổi |
Năng lượng |
Kcal/kg TA |
2,750 |
Đạm |
% |
17 – 17.5 |
Canxi |
% |
3.2 – 3.5 |
Phốt pho |
% |
0.6 – 0.65 |
Lyzin |
% |
0.84 – 0.95 |
Methiomin |
% |
0.35 – 0.38 |
Mangan |
Mg |
80 |
Kẽm |
Mg |
50 |
Sắt |
Mg |
30 |
Iod |
Mg |
1.1 |
Đồng |
Mg |
2 |
Selen |
Mg |
0.2 |
Coban |
Mg |
0.2 |
Vitamin A |
UI |
9,000 |
Vitamin B |
UI |
1,800 |
Vitamin C |
UI |
12 |
Cách cho gà đẻ ăn:
Không phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi thì mỗi ngày đối với gà đẻ cũng phải cho ăn ít nhất 2 – 3 lần. Khối lượng thức ăn phụ thuộc vào hướng gà đẻ.
Đối với gà hướng trứng như Gold Line, Hight – Line thì cho mỗi con ăn khoảng 110g/TA/con.
- Đối với gà kiêm dụng như Tam Hoàng, Lương phượng thì cho mỗi con gà ăn 125 – 130 g/ngày/con.
- Đối với gà hướng thịt như AA, BE, Cobb, Rot, 707, ISA… thì cho mỗi con ăn 140 – 145g/ngày/con.
Ở nước ta vào những tháng nóng nực cần cho gà ăn vào những lúc mát trời, chú ý nên cho ăn canxi riêng biệt sẽ làm tăng khả năng hấp thụ Ca, giai đoạn pha I cũng cần tăng hàm lượng phốt pho nhưng khi sang giai đoạn để pha II thì không nhất thiết. Thức ăn cần phải thường xuyên thay đổi nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng là yếu tố cần thiết cho gà đẻ không chán ăn, ngoài ra phải chú trọng chống nấm mốc để tránh tiêu chảy và nhiễm độc cho gà đẻ trứng. |