Định nghĩa về bệnh.
Sổ mũi truyền bệnh (Coryza Infectiosa Avium – CI) cũng là một bệnh ho thở lây lan nhanh ở mọi lứa tuổi gà với các biểu hiện đặc trưng: viêm xoang, viêm mũi, viêm mí mắt, tuyến nước mắt và ống dẫn nước mắt do một loại vi khuẩn Gram âm Haemophilus Paragallinarum gây ra. Bệnh còn có tên khác là sưng phù đầu gà (Coryza).
Sổ mũi truyền nhiễm hoàn toàn khác với bệnh cúm gà và không lây lan sang người.
Bệnh được De Blieck phát hiện lần đầu tiên ở Hà Lan vào năm 1931, 1932. Ngày nay, bệnh có mặt trên toàn thế giới, đặc biệt phát triển mạnh ở Anh, Mỹ, Hà Lan… Ở Việt Nam bệnh đã xuất hiện và đang có xu hướng lây lan nhanh từ gà đẻ đến gà có lứa tuổi thấp hơn.
Dịch tễ bệnh.
Vi khuẩn bệnh Haemophilus Paragallinarum (Haemophilus Gallinarum) là vi khuẩn Gram âm, có 3 chủng: A, B, C, sức sống yếu – chúng chết sau 12 giờ khi ra khỏi cơ thể gà. Trong môi trường thiên nhiên với nhiệt độ 18 – 220C sống được 4 ngày, 370C được 24 ngày
Vi khuẩn không truyền qua phôi trứng sang gà con.
Bệnh lây lan chủ yếu bằng con đường tiếp xúc trực tiếp qua đường miệng, đường hô hấp… hoặc gián tiếp khi các nguồn thức ăn, nước uống, dụng cụ bị ô nhiễm.
Bệnh mang tính thời vụ, thường xuất hiện vào cuối thu, mùa đông và xuân hè, nhưng cũng thấy ở các tháng nóng nực nhất.
Các yếu tố stress có hại và môi trường tiểu khí hậu không đảm bảo luôn là điều kiện tốt nhất cho bệnh bùng phát và lây lan nhanh.
Triệu chứng lâm sàng.
Bệnh có 2 thể biểu hiện: cấp tính và mãn tính.
Thời kỳ ủ bệnh rất ngắn: 1 – 3 ngày.
Lúc đầu chỉ thấy viêm cata - chảy nước mắt, nước mũi, viêm mí mắt và kết mạc mắt.
Vài ngày sau nước mũi chảy dàn dụa. Khi mới xuất hiện, nước mắt, nước mũi loãng trong, sau đó nhanh chóng thành dịch nhầy nhủ, có mùi thối khó chịu.
Thùy nhũng mí mắt, các xoang mũi dưới mắt bị viêm có mủ làm cho 1 hoặc 2 bên đầu gà sưng phù vì thế còn có tên gọi là bệnh sưng phù đầu gà.
Tuyến nước mắt và ống dẫn nước mắt bị viêm thối, nếu không điều trị kịp thời thì nhiều gà bị thối cả mắt.
Do viêm mủ gà bị tịt mũi và luôn há mồm để thở (thở bằng mồm), lưỡi thâm và khô, hơi thở khó chịu.
Gà ăn kém, ủ rũ.
Ngoài các triệu chứng trên, ở gà đẻ còn có thêm hiện tượng giảm đẻ - Sản lượng trứng tụt 15 – 20%.
Tuy bệnh nặng nhưng tỷ lệ chết lại thấp 5 - 20%. Gà chết rải rác, lác đác chứ không ồ ạt.
Mổ khám bệnh:
Bệnh tích tập trung ở đường hô hấp trên
Các ca cấp tính thấy viêm cata xoang mũi, xoang dưới mắt, mí mắt và kết mạc mắt.
Các ca mãn tính thì viêm thối (Viêm tạo mủ) các xoang mặt (xoang mũi, xoang trán, xoang dưới mắt, ống dẫn nước mắt kể cả thối mắt), nếu để lâu thì mũ tạo nên những cục trắng như bã đậu hủ.
Chuẩn đoán bệnh.
Bệnh dễ dàng được nhận biết qua các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích đặc trưng. Song ở một số ca nhẹ người cán bộ kỹ thuật cũng dễ nhầm lẫn với cúm gà, Niu - cat - xơn, viêm phế quản truyền nhiễm, CRD và viêm thanh khí quản truyền nhiểm.
Để phân biệt bệnh chúng ta phải làm:
- Về dịch tễ và lâm sàng (xem câu Nhà tôi có 2 đàn gà 20 và 28 ngày tuổi bị hen thở khò khè kèm theo tiếng rít mạnh. Tôi đã dùng Suanovil của Pháp để điều trị với liều cao gấp 2 - 3 lần trong nhiều ngày mà bệnh vẫn không thuyên giảm. Tôi phải làm gì để có thể phân biệt được các bệnh ho, hen và nguyên tắc điều trị các bệnh đó như thế nào?).
- Về sinh học.
Các cán bộ thú y các chi cục, các bác sỹ thú y, các trại chăn nuôi lớn hoàn toàn có thể làm các việc sau đẻ tự chẩn đoán khẳng định được bệnh:
Lấy nước mũi hoặc niêm mạc xoang mũi, xoang dưới mắt của những gà ốm pha với 5 – 10ml nước cất hoặc nước sinh lý, lọc kỹ rrồi nhỏ mũi cho gà khoẻ chưa bệnh lấy từ nơi khác về, mỗi con 2 – 3 giọt. Sau 2 – 3 ngày theo dõi những gà khoẻ đó bắt đầu chảy nước mũi, sưng phù mặt,… thì có kết quả dương tính bệnh sưng phù đầu.
Điều trị bệnh sổ mũi truyền nhiễm.
Các loại nguyên liệu kháng sinh và kháng khuẩn có phổ tác dụng rộng đều dễ dàng tiêu diệt được căn nguyên gây bệnh:
Kháng sinh
Neomycin.
Oxytetracyelin.
Ampicilin.
Amoxylin.
Doxyclin.
Kanamycin.
Lincomycin… |
Liều dùng chung 0.003 g/kg P trong 1 ngày và dùng liên tục 3 – 5 ngày. |
Kháng khuẩn :
Sulfathiazol.
Sulfadimedin.
Sulfachlorpyridazin.
Sulfachlorpyrazin.
Sulfamethoxazol.
Sulfadimethoxin… |
Liều dùng chung 0.004 g/kg P trong 1 ngày và dùng liên tục 4 ngày. |
Các loại kháng sinh và Sulfonamid được bào chế thành các sản phẩm có tác dụng hữu hiệu đối với sổ mũi truyền nhiễm là:
+ TIC hoặc Antibioque 20g/ngày.
+ Trisulfon Depot : 20g/ngày
+ Cầu trùng Năm Thái 20g/ngày
+ Vinacoc ABC: 1 gói 20g/ngày
Một trong những số thuốc trên chúng ta dùng cho 100kg gà/ngày và dùng 3 – ngày liên tục, bệnh chắc chắn sẽ khỏi.
Phòng bệnh sổ mũi truyền nhiễm (CI hoặc IC).
Phương pháp phòng bệnh từ xa.
Phải lấy gà con từ những nơi chưa có bệnh hoặc gà mái đẻ đã được tiêm phòng sổ mũi truyền nhiễm.
Hạn chế tối đa các yếu tố stress có hại.
Thức ăn phải giàu vitamin A, D, E.
Phương pháp phòng bệnh bằng vacxin.
Chúng ta có thể dùng một trong những loại vacxin sau:
+ Haemovac; vacxin vô hoạt có chất bổ trợ - tiêm dưới da hoặc bắp.
Lần 1: 21 – 28 ngày tuổi 0.3m/gà con.
Lần 2: 42 – 60 ngày tuổi 0.3m/gà con
Lần 3: 3 tuần trước khi đẻ (150 – 165 ngày tuổi) 0.3m/gà con
+ Medivac Coryza B:
Lần 1: cho uống hoặc nhỏ mũi lúc 7 ngày.
Lần 2: 6 – 8 tuần tuổi tiêm bắp, dưới da.
Lần 3: 16 – 18 tuần tuổi tiêm bắp hoặc dưới da.
Chú ý:
Đối với gà nuôi thịt chỉ cần dùng 2 lần vacxin, lần đầu phải dùng cho gà đến 3 tuần tuổi. Lần 2 sau lần 1 từ 3 - 6 tuần (chủng nhắc lại) tiêm bắp hoặc dưới da.
Đối với gà đẻ hoặc là dùng riêng vacxin chống sổ mũi truyền nhiễm lần 3 lúc 16 – 20 tuần tuổi hoặc tốt nhất nên dùng vacxin đa giá trong đó có thành phần chống bệnh sổ mũi như: OVO4, Talovac 403, ND + IB + CI + EDS…
|