Đặc điểm bất thường của virut gây bệnh cúm gà và bệnh cúm gà.
Như câu Bệnh cúm gà và bệnh cúm gia cầm giống và khác nhau ở điểm gì? Những gia súc nào thường hay bị cúm? đã ghi: virut gây bệnh cúm gà nhóm A thuộc họ Orthomyxoviridae là những virut ARN sợi âm tính chứa 2 loại kháng nguyên đặc biệt mà người ta dùng để phân biệt giữa chúng với nhau đó là kháng nguyên Hemaglutinin (viết tắt là HA và thường gọi là kháng nguyên H) và kháng nguyên Neuraminidasr (viết tắt là NA và thường gọi là N).
Cho đến nay các nhà khoa học đã phân lập được 15 loại H và 9 typ phụ N. Với 15H và 9N các virut cúm có thể kết hợp chéo với nhau để tạo ra 256 virut mới để chúng gây ra 256 kiểu dạng cúm mới. Tuy nhiên dựa vào độc lực gây bệnh mà người ta chia các virut cúm thành 2 loại chủ yếu: loại virut có độc lực cao gây bệnh cúm với tốc độ lây lan nhanh, diễn biến phức tạp, tỷ lệ tử vong cao gọi là bệnh cúm gà thể độc lực cao (HPAI - Hight Pathogenic Avian Inflyenza) là virut có độc lực thấp gây bệnh cúm nhẹ, diễn biến chậm, tỷ lệ tử vong thấp gọi là bệnh cúm gà thể độc lực thấp (LPAI - Low Pathogenic Avian
Inflyenza).
Sự đa dạng kháng nguyên là một đặc điểm nổi bật của virut cúm, chưa hết: sự nhanh chóng thay đổi thành phần của kháng nguyên mới là điều lo ngại nhất: bởi vì nó có thể phối hợp chéo, tái tổ hợp lại, về mặt di truyền để tự tạo ra một loại virut mới có khả năng chống lại các yếu tố bất lợi cho chúng nhằm thích nghi và tồn tại trước các giải pháp tích cực của con người .
Điều đáng nói và nguy hiểm hơn cả là trong cùng 1 lúc tế bào ký chủ tức là trong cùng một cơ thể động vật, đặc biệt là ở lợn có thể bị 1, 2, 3 loại virut type A xâm nhập cùng một lúc và khi đó các virut đời con được sinh ra từ 1, 2, 3 virut đời cha mẹ sẽ căn bản khác xa với bố mẹ chúng, mang tính gây bệnh có thể là cao hơn và chúng trở nên nguy hiểm hơn.
Với những đặc điểm bất thường nêu trên virut cúm gà phải được gọi là “Virut Quái” vì chúng có nhiều ưu điểm để tồn tại, lưu hành trong thiên nhiên mà chúng ta đang rất khó khăn tiêu diệt chúng.
Tác động tiêu cực về mặt đạo đức xã hội trong xử lý dịch cúm gia cầm.
Như phần trên đã nêu: cúm gà đã xảy ta tại nhiều nơi trên thế giới và chúng ta cũng đã và đang chứng kiến các giải pháp khác nhau trong việc khoanh vùng khống chế dịch.
Ở Châu Âu – liên minh Châu Âu đã áp dụng quy định 92/42/EU ngày 19/5/1992 huỷ bỏ tất cả những gia cầm nằm trong ổ dịch và vùng đe doạ với bán kính 30km, đã gây xáo trộn nhân sinh quan trong giới khoa học và nỗi kinh hoàng cho chủ chăn nuôi.
Ở Hồng Kông, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Hà Lan, Nhật Bản… và gần đây là Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Việt Nam… việc giết huỷ hàng triệu gia cầm đang sống trong vùng bị đe doạ đã gây tâm lý nặng nề không những cho người chăn nuôi, những người thừa hành công vụ mà còn gây nỗi hoang mang sợ hãi cho nhiều người khác có liên quan.
Rõ ràng việc giết và huy bỏ một số lượng lớn gia cầm đang sống khỏe mạnh có thể chưa nhiễm bệnh là một vấn đề cần xem xét đứng về góc độ đạo đức nhất là vừa qua một số tnước đã lên án các hành vi, đập, đạp chết gà khi đưa chúng đi giết mổ. Càng phải nghiêm túc cân nhắc khi nói đến sự thiệt hại
trực tiếp vô cùng lớn cho chủ chăn nuôi. Ở nước ta vụ dịch vừa qua 2003 – 2004 đã có nhiều chủ trang trại bị mất tới hàng tỷ đồng vì phải tiêu huỷ đàn gà đang sống của mình và cho đến nay vẫn không có cách gì gây dựng lại được. Hậu dịch cúm gà ở nước ta cũng đã cho thấy thịt gà, trứng gia cầm tăng gấp gần 2 lần và kéo dài liên tục trong nhiều tháng, đã tác động không nhỏ tới người tiêu dùng, hơn thế nữa thịt, trứng gia cầm tăng cao đã kéo theo một loạt giá thực phẩm khác cũng tăng theo, đặc biệt việc tăng giá nhiều mặt hàng khác không liên quan gì đến cúm gà mới là điều đáng lo ngại. Sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không kể đến những khó khăn của chính phủ khi công bố dịch, bởi nó liên quan trục tiếp đến các ngành dịch vụ, du lịch, ngoại thương của cả một nước.
* Bệnh cúm gà đe doạ trực tiếp đến tính mạnh con người. Theo Thành Long To (tạp chí KHKT Thú y số 2 /2004 trang 58 - có 3 đại dịch cúm ở người là :
1918 – 1919 “cúm Tây Ban Nha” (cúm do virut A H1N1) làm hơn 500.000 người chết ở Mỹ và từ 20 – 50 triệu người bị chết trên toàn thế giới.
1957 -1958 “cúm Châu Âu” (cúm do virut A H2N2) cũng xuất hiện tại Hồng Kông lây sang Mỹ làm chết hơn 34.000 người .
Đợt dịch cúm gà cuối năm 2003 đầu năm 2004 đã làm thiệt hại nặng nề các nước: Hà Lan, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam…
Riêng khu vực Châu Á cúm gà và cúm ở người đều được xác định do virut H5N1 type A chứng tỏ cúm gà là nguyên nhân gây cúm và chết ở người.
Phòng trị và dập dịch cúm gà ở Việt Nam – nhìn từ các phía.
Để có cơ sở cho mọi quyết định liên quan đến các vấn đề: dập dịch và ngăn ngừa sự lây lan chúng ta phải xem xét.
Dịch và ổ dịch cúm gà nhìn từ góc độ dịch tễ học.
Dịch: Chúng ta đã biết dịch là có một hoặc vài bệnh truyền nhiễm xuất hiện trên cùng một loài động vật trong cùng một khoảng thời gian theo từng đợt có xu thế lây lan nhanh trên phạm vi địa lý nhất định và có thể lập lại theo chu kỳ gọi là dịch.
Ổ dịch: Theo Dương Đình Thiện: ổ dịch động vật là một bệnh truyền nhiễm xuất hiện trong 1 thời gian ngắn có tỷ lệ mắc bệnh hoặc chết trung bình trong nhiều năm liền tại một vùng (một khu vực) địa lý nhất định. Theo Pháp lệnh thú y mới nhất được quốc hội thông qua ngày 29/4/2004 ghi rõ: ổ dịch động vật là nơi đang có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của động vật thuộc danh mục các bệnh phải công bố dịch hoặc danh mục các bệnh nguy hiểm của động vật.
Vùng dịch: là vùng có nhiều ổ dịch đã được các cơ quan thú y có thẩm quyền xác định, là nơi đang có gia súc chết và gia súc bệnh.
Vùng bị dịch uy hiếp; là vùng ngoại vị bao quanh vùng có dịch hoặc vùng tiếp giáp với vùng có dịch ở biên giới của nước láng giềng đã được cơ quan thú y có thẩm quyền xác định trong phạm vi nhất định tuỳ theo từng bệnh. Là nơi bao quanh vùng dịch và rộng hay hẹp do loại bệnh và loài gia súc mắc bệnh, ở đó có mầm bệnh, có động vật đang nung bệnh, có con nghi lây…
Vùng đệm: là vùng ngoại vi bao quanh vùng bị dịch uy hiếp đã được cơ quan thú y có thẩm quyền xác định trong phạm vị nhất định tuỳ theo từng bệnh.
Vùng an toàn:
Là vùng ngoài vùng bị uy hiếp mà ở đó trước mắt không có mầm bệnh gà gia súc đang hoàn toàn khoẻ mạnh hoặc là vùng lãnh thổ được xác định là không có bệnh trong danh mục do Bộ Nông nghiệp và PTNT công bố trong khoản thời gian nhất định.
Ở nước ta, đợt dịch cúm gà xảy ra đã đưa bệnh cúm gà đứng vào danh mục các bệnh buộc phải công bố dịch và cũng trong thời gian dịch vừa qua mặc dù chúng ta đã rất cố gắng hạn chế sự lây lan, song rất tiếc bệnh đã nhanh chóng phủ kín cả nước trừ một vài tỉnh vùng sâu vùng xa, vấn đề này chắc chắn sẽ được các cơ quan chuyên môn và chính quyền các cấp xem xét rút kinh nghiệm.
Việc áp dụng giết tất cả các gia cầm mẫm cảm trong ổ dịch và vùng bị đe doạ với bán kính 3 km cùng với các biện pháp kiểm soát vận chuyển, giết mổ, buôn bán gia cầm đã không ngăn chặn được sự lây lan là một thực tế buộc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về:
Phương thức xác định ổ dịch, vùng dịch và vùng bị đe dọa sao cho phù hợp để thực hiện được mục tiêu: vừa khống chế sự lây lan, vừa tránh được thiệt hại kinh tế cho chủ chăn nuôi.
Tổ chức mạng lưới chống dịch cần phải được quan tâm và quán triệt hơn theo đúng điều 18, 19, 20 pháp lệnh thú y đã được quốc hội thông qua 29/4/2004 trong các cơ quan thuộc các ngành và cấp chính quyền… trong đó vai trò các lực lượng như quân đội, dân quân tự vệ, cảnh sát là hết sức quan trọng. Bởi lực lượng vũ trang sẽ giúp ngành thú y kiểm soát tốt hơn việc giết mổ gia súc, lưu thông động vật và sản phẩm động vật trong toàn khu vực có dịch cũng như vùng bị đe doạ.
Ngành thú y phải tập trung chuẩn bị tốt công tác hậu cần phục vụ công việc giết huỷ gia cầm, khử trùng tiêu độc theo một qui trình thống nhất trên phạm vi cả nước.
Công tác tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp lệnh thú y trong toàn xã hội phải thực sự được cấc cấp chính quyền quan tâm, coi trọng và thực hiện thường xuyên.
Dập dịch và chống dịch cúm gà nhìn từ góc độ sử dụng vaccin.
Các loại vacxin hiện nay trên thế giới.
Vacxin đồng chủng (Homologous) – đây là vacxin vô hoạt có cùng kháng nguyên H và N với virut gây bệnh ngoài thực địa, nên có khả năng đáp ứng miễn dịch tốt chống lại virut gây bệnh cường độc và đã được sử dụng ở Pakistan, Mehico Và Mỹ. Hạn chế của loại vacxin này là:
Không loại bỏ được tận gốc sự lây nhiễm virut cúm tức là không loại trừ khả năn thâm nhập virut cường độc vào cơ thể gà.
Nếu sử dụng vacxin loại này thì trình độ khoa học thế giới ngày nay chưa đủ để phân biệt rõ đàn gia cầm nào đã được tiêm và chưa được tiêm vacxin…. Đây là một trở ngại lớn nhất, là nguyên nhân dẫn đến sự lúng túng, do dự và trì trệ trong việc quyết đoán giải pháp cần lựa chọn mà hậu quả dẫn đến khôn lường: bệnh nhanh chóng trở thành dịch có xu thế thành đại dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc biến chủng và tăng độc lực của virut cúm.
Vacxin dị chủng (Heterologous)
Đây cũng là vacxin vô hoạt có cùng thành phần kháng nguyên H nhưng có kháng nguyên N khác với virut gây bệnh cúm thực địa. Ưu điểm nổi bật của loại vacxin này là cho phép chúng ta có thể phân biệt được đàn gia cầm chưa tiêm với đàn đã được tiêm vacxin.
Tuy nhiên muốn làm được điều này chúng ta phải có cả một ngân hàng vacxin đủ chủng loại, đủ cơ số để sử dụng ngay trong trường hợp khẩn cấp. Đồng thời phải có 1 hệ thống y tế dự phòng đủ mạnh để kiểm soát dịch.
Nói về ngân hàng vacxin ta phải hiểu và có đủ virut cúm của 15 loại kháng nguyên H và 9 loại kháng nguyên N.
Nói về y tế dự phòng của ngành thú y ta phải hiểu đó là một hệ thống thú y từ địa phương đến trung ương với những trung tâm theo dõi có đủ năng lực xác định và phân biệt được virut vacxin với virut gây bệnh ngoài thực địa. Đồng thời các trung tâm đó phải đánh giá được hiệu lực của vacxin không những trên mỗi đàn gia cầm được tiêm mà của cả chương trình sử dụng vacxin trên phạm vi toàn quốc
Vacxin tái tổ hợp
Đây là loại vacxin được chế tạo theo công nghệ mới nhất, tái tổ hợp gen trên cơ sở nguyên tắc của vacxin dị chủng. Tức là có kháng nguyên H tương đồng với kháng nguyên H của virut thực địa, nhưng kháng nguyên N lại khác căn bản với kháng nguyên N của virut cường độc.
Ở Mehico người ta đã sử dụng vacxin tại tổ hợp này H5N2 để chống lại và kết quả cho thấy:
Vacxin loại này cho phép phân biệt được động vật đã được tiêm với động vật chưa tiêm vacxin, vì động vật tiêm chủng vacxin không sản sinh ra kháng thể kháng lại kháng nguyên nhóm A (tức là kháng nguyên nhân – Nucleoprotein).
Loại vacxin này không sản sinh ra kháng thể bảo hộ đối với những động vật đã tiếp xúc, bị nhiễm mầm bệnh. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng vacxin loại này không loại bỏ được tận gốc bệnh cúm, mà chỉ hạn chế sự bài tiết virut cúm cường độc mà thôi. Nói cách khác vacxin loại này chỉ dùng ở những đàn chưa có mầm bệnh, khi kiểm tra huyết thanh thấy âm tính với virut đích (virut gây bệnh).
Tác dụng của cả 3 loại vacxin đều do kháng nguyên H quyết định vì kháng nguyên H là thành phần chủ yếu kích thích cơ thể sản sinh ra kháng thể đặc hiệu. Cúm kháng nguyên N là giúp chúng ta phân biệt kháng thể do virut vacxin hay virut thực địa.
Chọn giải pháp sử dụng vacxin.
Các nhà khoa học, tổ chức dịch tễ thế giới - OIE, tổ chức y tế thế giới WHO tại thời điểm này đã khuyến cáo các nước có dịch cúm gà như sau:
Sử dụng vacxin vào mục đích chống bệnh cúm gà chỉ là một giải pháp hỗ trợ để dập dịch, khoanh vùng và khống chế dịch, bởi vì vacxin chỉ hạn chế bài xuất virut cường độc ra môi trường chứ vacxin không loại bỏ được tận gốc bệnh cúm gà.
Chỉ xem xét tiêm chủng khi thật khẩn cấp đối với gia cầm có giá trị kinh tế cao với giống quí hiếm bị de doạ tuyệt chủng.
Để có quyết định tiêm chủng phải dựa vào năng lực và các điều kiện sau:
Phải có hệ thống chẩn đoán đủ năng lực xác định được cúm gà có độc lực cao (HPAI) hay độc lực thấp (LPAI), trong thực tế việc xác định HPAI thì dễ, song xác định LPAI là rất khó và đây là khó khăn lớn nhất đối với nhiều nước trong đó có Việt Nam.
Phải có ngân hàng vacxin đủ các chủng loại kháng nguyên H và N nhằm hạn chế tối đa hậu quả biến chủng virut cúm sau khi áp dụng tiêm phòng.
Phải có hệ thống kiểm soát thú y chặt chẽ từ trung ương đến địa phương nhằm kiểm soát được những đàn đã sử dụng vacxin với những đàn chưa sử dụng vacxin.
Nếu căn cứ vào lời khuyến cáo trên và các điều kiện cần thiết để đưa ra quyết định tiêm chủng chống bệnh cúm gà thì ở nước ta đến tại thời điểm này việc sử dụng vacxin H5N2 là chưa đủ cơ sở, cần phải có những cân nhắc kỹ lưỡng.
Điều bức xúc và trăn trở lớn nhất của các nhà quản lý và chuyên môn là :
Làm thế nào để khống chế và dập được dịch cúm gà trong bối cảnh:
Chủ chăn nuôi chỉ được nhận một phần tiền rất nhỏ khi phải tiêu huỷ cả trại gia cầm đang sống và khoẻ mạnh của mình.
Hệ thống quản lý, kiểm soát chẩn đoán bệnh dịch còn thiếu năng lực trên phạm vi cả nước.
Ý thức chấp hành và thực hiện pháp lệnh thú y chống dịch của toàn xã hội chưa được cao.
Cần phải tính đến khả năng biến chủng của virut cúm gà đối với sức khoẻ con người nếu sử dụng vacxin chống cúm gà một cách rộng rãi?
Câu trả lời cho quyết định thoả đáng vẫn còn ở phía trước và chúng ta hy vọng một ngày không xa các nhà nghiên cứu sẽ chế tạo được một loại vacxin có thể sự dụng một cách rộng rãi và có thể kiểm soát được mà không gây ra hậu quả biến chủng của virut cúm.
Đến tại thời điểm này chính phủ Thái Lan, Indonesia, Pakistan, Mexico, đã cho phép sử dụng vacxin H5N2 của Intervet để tiêm phòng vào mục đích dập dịch. |